Đường Huyền Tông
hoàng đế thứ 7 triều đại nhà Đường / From Wikipedia, the free encyclopedia
Đường Huyền Tông (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng /ˈʃwɑːnˈtsɒŋ/;[7] 8 tháng 9, 685[5] - 3 tháng 5, 762[6]), hay Đường Minh Hoàng (chữ Hán: 唐明皇, bính âm: Táng Míng Huáng),[8] tên thật là Lý Long Cơ, có thời điểm gọi là Võ Long Cơ (tiếng Trung: 武隆基) trong giai đoạn 690 - 705,[9] là vị Hoàng đế thứ 7 hoặc thứ 9[Ghi chú 2] của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Đường Minh Hoàng được đánh giá là một trong những vị Hoàng đế đáng chú ý nhất của nhà Đường, danh tiếng không thua kém ông cố nội của ông là Đường Thái Tông Lý Thế Dân, tạo nên giai đoạn thịnh trị tột bậc cho triều đại này.
Đường Huyền Tông 唐玄宗 | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Trung Hoa | |||||||||||||||||
Hoàng đế Đại Đường | |||||||||||||||||
Trị vì | 13 tháng 8 năm 712[1] – 12 tháng 8 năm 756[2][3] (43 năm, 365 ngày) | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Đường Duệ Tông | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Đường Túc Tông | ||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 8 tháng 9, 685[4][5] Trường An, Đại Đường | ||||||||||||||||
Mất | 3 tháng 5, 762(762-05-03) (76 tuổi)[6] Cam Lộ điện thuộc Thái Cực Cung, Trường An, Đại Đường | ||||||||||||||||
An táng | Thái lăng (泰陵) | ||||||||||||||||
Thê thiếp | Vương hoàng hậu Trinh Thuận Võ hoàng hậu Nguyên Hiến Dương hoàng hậu Dương Quý phi | ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Triều đại | Nhà Đường (唐) | ||||||||||||||||
Thân phụ | Đường Duệ Tông | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Chiêu Thành Đậu hoàng hậu | ||||||||||||||||
Chữ ký |
Đường Huyền Tông | |||||||||||||||||||
"Đường Huyền Tông" viết bằng chữ Hán | |||||||||||||||||||
Tiếng Trung | 唐玄宗 | ||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Nghĩa đen | "Vị tổ tiên huyền diệu của nhà Đường" | ||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||
Đường Minh Hoàng | |||||||||||||||||||
Tiếng Trung | Đường Minh Hoàng | ||||||||||||||||||
Nghĩa đen | "Vị hoàng đế sáng suốt của nhà Đường" | ||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||
Lý Long Cơ | |||||||||||||||||||
Tiếng Trung | 李隆基 | ||||||||||||||||||
Nghĩa đen | (tên cá nhân) | ||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||
Minh hoàng đế | |||||||||||||||||||
Tiếng Trung | 明皇帝 | ||||||||||||||||||
Nghĩa đen | Vị hoàng đế sáng suốt | ||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||
Lý Tam Lang | |||||||||||||||||||
Tiếng Trung | 李三郎 | ||||||||||||||||||
Nghĩa đen | Con trai thứ ba của họ Lý | ||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||
Thời niên thiếu của ông chứng kiến những biến động to lớn của dòng họ, từ việc tổ mẫu Võ thái hậu soán ngôi xưng đế cho đến Vi hoàng hậu mưu đoạt ngai vàng. Năm 710, sau khi bác ruột là Đường Trung Tông bị mẹ con Vi hoàng hậu và Công chúa An Lạc ám hại, ông liên kết với cô mẫu là Trưởng công chúa Thái Bình, tiến hành chính biến Đường Long, tiêu diệt bè đảng Vi thị, tôn hoàng phụ tức Duệ Tông Lý Đán trở lại ngôi hoàng đế. Sau đó, Lý Long Cơ được phong làm Hoàng thái tử. Năm 712, Long Cơ được vua cha nhường ngôi[10]. Sau khi đăng cơ, Đường Minh Hoàng thanh trừng các phe cánh chống đối do công chúa Thái Bình lãnh đạo, chấm dứt gần 30 năm đầy biến động của nhà Đường với liên tiếp những người phụ nữ nối nhau bước lên vũ đài chánh trị. Sau đó, ông bắt tay vào việc xây dựng đất nước, trọng dụng các tể quan tài ba như Diêu Sùng, Tống Cảnh, Trương Thuyết và Trương Cửu Linh, đề xướng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trọng dụng nhân tài, ngăn chặn quan liêu lãng phí, tăng cường uy tín của Trung Quốc với lân bang, mở ra thời kì Khai Nguyên thịnh thế (開元盛世) kéo dài hơn 30 năm.
Tuy nhiên về cuối đời, Đường Minh Hoàng sinh ra u mê xa xỉ, mê đắm trong tửu sắc, không chú ý đến nền chính trị ngày càng bại hoại suy vi, bên trong sủng ái Dương Quý Phi, bỏ bê việc nước, bên ngoài trọng dụng gian thần Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung khiến cho nền thống trị ngày càng xuống dốc[11]. Các phiên trấn do người dân tộc thiểu số cai quản được trọng dụng quá mức, trong đó có mạnh nhất là An Lộc Sơn ở đất Yên. Năm 755, An Lộc Sơn chính thức phát động loạn An Sử sau đó nhanh chóng tiến về kinh đô Trường An.[12] Sự kiện này cũng mở đầu cho giai đoạn suy tàn của triều đại nhà Đường[13][không khớp với nguồn]. Trước bờ vực của sự diệt vong, Minh Hoàng và triều đình phải bỏ chạy khỏi kinh thành Trường An, đi đến Thành Đô. Cùng năm 756, con trai ông là thái tử Lý Hanh xưng đế, tức là Đường Túc Tông, Minh Hoàng buộc phải thừa nhận ngôi vị của Túc Tông, lên làm Thái thượng hoàng[14].
Cuối năm 757, khi quân Đường giành lại được kinh đô Trường An, Thái thượng hoàng đế được đón về kinh đô nhưng không còn quyền lực và bị hoạn quan Lý Phụ Quốc ức hiếp. Những ngày cuối cùng của ông sống trong u uất và thất vọng[15] cho đến lúc qua đời vào ngày 3 tháng 5 năm 762, ở tuổi 78.