Đảng Cộng sản Triều Tiên
From Wikipedia, the free encyclopedia
Đảng Cộng sản Triều Tiên (Tiếng Hàn: 조선공산당; Hanja: 朝鮮共産黨), thường gọi tắt là Triều Cộng, là một chính đảng theo chủ nghĩa cộng sản được Quốc tế Cộng sản thành lập tại một hội nghị bí mật ở Seoul vào năm 1925 dưới thời bị Nhật Bản đô hộ.[1][2] Thập niên 1920, Đảng Cộng sản Triều Tiên mở rộng hoạt động ra tận các khu vực có người Triều Tiên sinh sống gồm Nhật Bản và Mãn Châu. Năm 1925, Toàn quyền Triều Tiên đã cấm các đảng cộng sản theo Luật Bảo tồn Hòa bình, vì vậy đảng này phải hoạt động một cách bí mật. Do bị Nhật đàn áp, Trung ương đảng này bị xóa sổ rồi lập lại nhiều lần, vì thế mà có Đảng Cộng sản Triều Tiên thứ nhất đến tận thứ tư. Sau khi Đảng Cộng sản Triều Tiên thứ tư bị Quốc tế Cộng sản xóa sổ vào năm 1929 vì mâu thuẫn, nhiều chi bộ của nó vẫn tồn tại và phong trào tái lập Đảng Cộng sản Triều Tiên vẫn được tiếp tục.[1][3]
Đảng Cộng sản Triều Tiên 조선공산당 Chosŏn Kongsandang | |
---|---|
Lãnh đạo | Kim Jae-bong Kang Dal-young Pak Hon-yong |
Thành lập | 17 tháng 4 năm 1925; 99 năm trước (1925-04-17) |
Giải tán | 23 tháng 11 năm 1946; 77 năm trước (1946-11-23) |
Ý thức hệ | Chủ nghĩa Cộng sản Chủ nghĩa Marx – Lenin |
Khuynh hướng | Cực tả |
Thuộc tổ chức quốc tế | Comintern |
Sau Chiến tranh Thái Bình Dương, Đảng Cộng sản Triều Tiên được tái lập vào tháng 9 năm 1945. Nó chính là một trong những tiền thân của Đảng Lao động Triều Tiên đang lãnh đạo Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên hiện nay. Tuy nhiên, người sáng lập Đảng Lao động Triều Tiên, Kim Nhật Thành ít có quan hệ với Đảng Cộng sản Triều Tiên, đồng thời giữa hai đảng này lại có những đối lập giữa các cá nhân, vì thế Đảng Lao động Triều Tiên có đánh giá mang tính phủ nhận đối với Đảng Cộng sản Triều Tiên.