Ủy ban Nhân dân Bắc Triều Tiên
From Wikipedia, the free encyclopedia
Ủy ban Nhân dân Bắc Triều Tiên (Chosŏn'gŭl: 북조선인민위원회; Pukchosǒn Inmin Wiwŏnhoe, Hán Việt: Bắc Triều Tiên Nhân dân Ủy viên hội) là một chính phủ được thành lập bởi Kim Nhật Thành sau khi ông tuyên bố tách khỏi Chính phủ lâm thời Đại Hàn Dân Quốc trong thời kỳ mở đầu của Chiến tranh Lạnh cùng với sự lãnh đạo của Đảng Lao động Triều Tiên (mà tiền thân là Đảng Cộng sản Triều Tiên). Đây là một chính phủ tồn tại được sự hậu thuẫn bởi Liên Xô và luôn ở thế đối đầu với Chính phủ lâm thời Đại Hàn Dân quốc do Mỹ hậu thuẫn ở phía nam Vĩ tuyến 38 trên bán đảo này.
Ủy ban Nhân dân Bắc Triều Tiên
|
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
1947–1948 | |||||||||||
Lãnh thổ Triều Tiên ở vĩ tuyến 38 Bắc | |||||||||||
Tổng quan | |||||||||||
Vị thế | Chính phủ lâm thời | ||||||||||
Thủ đô | Bình Nhưỡng | ||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Triều Tiên | ||||||||||
Tôn giáo chính | Cheondo giáo, Shaman giáoa | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Đơn nhất Marx-Lenin chính phủ lâm thời | ||||||||||
Lãnh tụ tối cao | |||||||||||
Kim Nhật Thành | |||||||||||
Chủ tịch Đảng Lao động Triều Tiên | |||||||||||
Kim Đấu Phụng | |||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
Thời kỳ | Chiến tranh Lạnh | ||||||||||
• Liên Xô chiếm đóng Triều Tiên | tháng 8 năm 1946 | ||||||||||
• Hậu thuẫn bởi Liên Xô | tháng 2 năm 1946 | ||||||||||
tháng 3 năm 1946 | |||||||||||
• Thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên | 9 tháng 9 năm 1948 | ||||||||||
Kinh tế | |||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Yên[3] (1946–1947) Won Bắc Triều Tiên (1947–1948) | ||||||||||
| |||||||||||
^a Xem Tôn giáo tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. |
Ủy ban Nhân dân Bắc Triều Tiên | |
Chosŏn'gŭl | 북조선인민위원회 |
---|---|
Hancha | 北朝鮮人民委員會 |
Romaja quốc ngữ | Bukjoseon Inmin Wiwonhoe |
McCune–Reischauer | Pukchosǒn Inmin Wiwŏnhoe |
Hán-Việt | Bắc Triều Tiên Nhân dân Ủy viên hội |
Quốc kỳ của Bắc Triều Tiên ban đầu được sử dụng cờ Takeuga để cho phù hợp với truyền thống quốc gia, nhưng sau này chính phủ Đại Hàn Dân quốc đã sử dụng cờ này và nhằm đảm bảo phù hợp với những quốc gia cộng sản nên khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên được thành lập đã sử dụng cờ có ngôi sao năm cánh và nền đỏ tượng trưng cho ý chí đấu tranh cách mạng và tinh thần yêu nước của toàn Đảng toàn dân. Màu trắng của hai viền và bao quanh ngôi sao đỏ tượng trưng cho tính thống nhất và duy nhất của dân tộc, rìa cờ màu xanh da trời biểu thị nguyện vọng thiết tha yêu chuộng hòa bình. Lá cờ này được sử dụng cho đến ngày nay.