Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
From Wikipedia, the free encyclopedia
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là danh hiệu vinh dự cao nhất của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, phong tặng hoặc truy tặng cho các cá nhân "có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có đạo đức, phẩm chất cách mạng" và những tập thể "có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nội bộ đoàn kết tốt; tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh."[1]
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân | |
---|---|
Huy hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang | |
Trao bởi Việt Nam | |
Loại | danh hiệu vinh dự |
Ngày thành lập | 10 tháng 8 năm 1952 (1952-08-10) |
Quốc gia | Việt Nam |
Cuống | |
Tư cách | cá nhân, tập thể |
Tình trạng | đang được trao |
Sáng lập | Hồ Chí Minh |
Thông tin khác | |
Bậc trên | Cao nhất |
Tương đương | Anh hùng Lao động |
Cuống huy hiệu | |
Tính đến năm 2006, đã có 3.738 đơn vị được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 36 đơn vị được tuyên dương danh hiệu này 2 lần, 4 đơn vị được tuyên dương 3 lần. Về cá nhân, đã có 1.286 quân nhân được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 148 trong kháng chiến chống Pháp, 859 trong Kháng chiến chống Mỹ, 279 trong các cuộc chiến khác. Trong số đó, 160 anh hùng là nữ và 163 anh hùng là người dân tộc thiểu số. Có 1 anh hùng là người nước ngoài khi được công nhận (ông Nguyễn Văn Lập, tên khai sinh là Kostas Sarantidis, người Hy Lạp sau nhập quốc tịch Việt Nam).