General Dynamics-Grumman F-111B
From Wikipedia, the free encyclopedia
General Dynamics/Grumman F-111B được phát triển với nhiệm vụ tiêm kích đánh chặn hoạt động trên tàu sân bay tiếp sau F-4 Phantom II. Nó được công ty General Dynamics hợp tác với Grumman phát triển vào thập niên 1960 cho Hải quân Hoa Kỳ (USN), đây là một phần thuộc chương trình Tiêm kích chiến thuật thử nghiệm (TFX) tham gia với Không quân Hoa Kỳ (USAF) nhằm chế tạo một mẫu tiêm kích chung đảm nhận nhiều nhiệm vụ khác nhau. F-111B sử dụng nhiều sáng kiến kỹ thuật mới như cánh cụp cánh xòe, động cơ tuanbin quạt trong đốt tăng lực và hệ thống vũ khí tầm xa AWG-9/AIM-54 Phoenix.
F-111B | |
---|---|
F-111B, BuNo 151974, hạ cánh trên USS Coral Sea vào tháng 7 năm 1968. | |
Kiểu | Máy bay tiêm kích đánh chặn |
Quốc gia chế tạo | Hoa Kỳ |
Hãng sản xuất | General Dynamics và Grumman |
Chuyến bay đầu tiên | 18 tháng 5 năm 1965 |
Trang bị cho | Hải quân Hoa Kỳ |
Số lượng sản xuất | 7 |
Giá thành | 8 triệu USD[1] |
Phát triển từ | General Dynamics F-111 Aardvark |
F-111B được thiết kế song song với F-111 "Aardvark", không quân đã tiếp nhận F-111 với vai trò máy bay tấn công, trong khi F-111B gặp phải nhiều vấn đề trong phát triển và các yêu cầu của hải quân đã đổi sang một máy bay có khả năng cơ động tốt trong không chiến tầm gần. F-111B không được đưa vào sản xuất, mẫu thử F-111B được sử dụng để thử nghiệm trước khi bị thải loại. F-111B bị thay thế bởi loại Grumman F-14 Tomcat nhẹ hơn và nhỏ hơn, nó cũng có cấu hình cánh cụp cánh xòe, hệ thống vũ khí AWG-9/Phoenix và động cơ như F-111B.