Chính thống giáo Đông phương
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chính thống giáo Đông phương là nhánh Kitô giáo (Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo) lớn thứ nhì trên thế giới, sau Giáo hội Công giáo La Mã. Là một trong những định chế lâu đời nhất trên thế giới, Giáo hội Chính thống giáo Đông phương đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử và văn hóa Đông Âu, Hy Lạp, Nga, Kavkaz và Cận Đông. Chính thống giáo là đạo Kitô giáo từ nguyên thủy, là sự tiếp nối duy nhất và chính thống của giáo hội do Chúa Giêsu Kitô thiết lập, xem chính mình là Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Được thành lập trong thế kỷ đầu tiên, Chính thống giáo Đông phương vẫn giữ sự kế cận và trung thành với truyền thống Kitô giáo ban đầu.
Giáo hội Chính thống giáo Đông phương | |
---|---|
Nhà thờ Unspenski tại Heisinki, Phần Lan | |
Loại | Kitô giáo Đông phương |
Phân loại | Chính thống giáo Đông phương |
Kinh thánh | Bản Bảy Mươi, Tân Ước Hi văn |
Thần học | Thần học Chính thống Đông Phương |
Chính thể | Giám mục |
Cấu trúc | Hiệp thông |
Primus inter pares | Thượng phụ Đại kết thành Bartholomew I |
Vùng | Đông Nam Âu, Đông Âu, Bắc Á, Cận Đông, Cyprus, Georgia[1] |
Ngôn ngữ | Tiếng Hy Lạp Koine, Tiếng Slav Giáo hội, và bản ngữ[2][3][4] |
Phụng vụ | Nghi lễ Byzantine (chiếm đa số); có tồn tại Nghi lễ Phương Tây |
Người sáng lập | Giê-su và truyền bá bởi Thánh Anrê, theo Thánh truyền |
Bắt đầu | Thế kỷ 1, Đất Thánh, Đế quốc La Mã, theo Thánh Truyền |
Thành viên | 220 triệu[5] |
Cấu trúc của Chính thống giáo Đông phương là một khối hiệp thông các giáo hội tự chủ, được cai quản bởi Thánh Công đồng bao gồm các giám mục. Vào thế kỷ XI do có một số khác biệt giữa phương đông và phương tây cùng sự chia cắt làm hai của La Mã (Đông La Mã và Tây La Mã), dẫn đến cuộc Đại ly giáo Đông–Tây năm 1054. Sự phân chia hình thành việc Công giáo được thành lập ở phía Tây, trong đó có Công Giáo La Mã.
Tín hữu Chính thống giáo xem giáo hội của mình là truyền thống Kitô giáo trung thành nhất với các giá trị thần học bắt nguồn từ thời hội thánh tiên khởi. Giáo hội cấu trúc tổ chức bao gồm các giáo phận độc lập cùng chia sẻ một nền thần học, đặt dưới quyền cai quản của các Giám mục có nhiệm vụ bảo vệ các truyền thống giáo hội được lưu truyền từ Mười hai Sứ đồ qua quyền tông truyền, đặc biệt là Thánh Anrê.
Giáo hội Chính thống giáo được xem là:
- Hội thánh nguyên thủy được thiết lập bởi Chúa Giê-su Ki-tô và các sứ đồ.
- Giáo huấn và truyền thống giáo hội được bảo tồn bởi các tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai được lưu truyền từ các sứ đồ, cùng các truyền thống khác được phát triển sau này nhằm mở rộng và làm sáng tỏ các giáo huấn nguyên thủy.
- Tân Ước viết cho tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai và trình bày các giáo lý đã có sẵn của hội thánh (ngụ ý Giáo hội là nền tảng của Tân Ước).
Giáo hội thiết lập và bảo tồn lịch Kitô giáo nguyên thủy (dựa trên lịch Julius), xác lập những ngày lễ kỷ niệm các sự kiện quan trọng trong cuộc đời Chúa Giê-su.
Theo dòng lịch sử, các Giáo hội Chính thống giáo chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp với các thành phố như Alexandria, Antiochia, và Constantinopolis (nay là Istanbul); trong khi đó Giáo hội Công giáo gắn liền với văn hóa Latinh với trung tâm là Roma. Sự khác biệt ngày càng gia tăng khi Đế quốc La Mã bị chia cắt thành hai phần: phương Đông và phương Tây.