Kinh tế quy mô
From Wikipedia, the free encyclopedia
Kinh tế quy mô (economies of scale) hay Kinh tế bậc thang chính là chiến lược được hoạch định và sử dụng triệt để trong nhiều ngành kinh doanh; nhất là trong sản xuất. Nội dung chính là nếu sản xuất với quy mô càng lớn thì chi phí và giá thành trên một đơn vị sản phẩm sẽ càng giảm, làm gia tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh.
Bài viết này trong loại bài Kinh tế học |
Đề cương các chủ đề |
---|
Phân loại tổng quát |
Kinh tế học vi mô · Kinh tế học vĩ mô |
Các phương pháp kỹ thuật |
Toán học ·
Kinh tế lượng
|
Lĩnh vực và tiểu lĩnh vực |
Hành vi · Văn hóa · Tiến hóa |
Danh sách |
Tạp chí · Ấn bản |
Các tư tưởng kinh tế Vô chính phủ · Tư bản |
Ăng-lô - Xắc-xông · Phong kiến |
Chủ đề Kinh tế học |
Khái niệm này sử dụng trong quản trị chiến lược và tài chính quản trị nhằm đánh giá các tác động của việc tăng năng suất lao động, sử dụng các định phí để ra quyết định chiến lược và điều hành sản xuất.
Hình bên minh họa tính kinh tế quy mô. Trục hoành biểu diễn sản lượng, tức số lượng đơn vị sản phẩm. Trục tung thể hiện chi phí bình quân trên một đơn vị sản phẩm. Đường cong trên sơ đồ là đường chi phí bình quân dài hạn. Khi quy mô sản xuất được mở rộng để sản lượng tăng từ Q lên Q2, chi phí bình quân giảm từ C xuống C1.
Trong kinh tế học vi mô, kinh tế quy mô chính là lợi thế chi phí mà các doanh nghiệp có được nhờ vào quy mô doanh nghiệp, quy mô sản xuất hoặc quy mô hoạt động, với chi phí trên mỗi đơn vị đầu ra thường giảm đi với quy mô ngày càng tăng khi chi phí cố định được chia đều trên mỗi đơn vị đầu ra.
Thông thường, hoạt động sẽ hiệu quả hơn khi quy mô được mở rộng, đồng thời dẫn đến việc giảm các chi phí biến đổi.
Kinh tế quy mô áp dụng được cho một loạt các tình huống tổ chức kinh doanh ở các cấp độ khác nhau, chẳng hạn như một doanh nghiệp, một nhà máy hay chỉ một đơn vị sản xuất. Ví dụ, một cơ sở sản xuất lớn được kì vọng sẽ có chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm đầu ra thấp hơn so với một cơ sở sản xuất nhỏ hơn, với điều kiện các yếu tố khác là như nhau. Hoặc một công ty với nhiều cơ sở sản xuất nên phải có lợi thế về chi phí so với các đối thủ cạnh tranh có ít cơ sở sản xuất hơn.
Khái niệm kinh tế học này xuất phát từ Adam Smith với ý tưởng mong muốn thu được lợi nhuận sản xuất lớn hơn từ việc phân công lao động[1]. Trong khi đó, tính phi kinh tế quy mô (diseconomies of scale) là khái niệm đối ngược với khái niệm trên.
Kinh tế quy mô thường vẫn còn một số hạn chế; ví dụ như khi vượt qua điểm tối ưu, nơi mà chi phí cho mỗi đơn vị gia tăng bắt đầu tăng lên. Một hạn chế phổ biến đối với chi phí thấp cho mỗi đơn vị trọng lượng hàng hóa đó là cung cấp hàng hóa cho thị trường vượt mức bão hòa, do đó phải vận chuyển hàng hóa tới thị trường khác xa hơn, lúc này khoảng cách vận chuyển là không kinh tế. Các hạn chế bao gồm sử dụng năng lượng không hiệu quả, hoặc là tỷ lệ khuyết tật của sản phẩm cao hơn mức bình thường.
Các hãng sản xuất lớn thường đạt hiệu quả trong dài hạn đối với một loại sản phẩm phân cấp nhất định và họ thường cảm thấy rất tốn kém khi chuyển hướng sang một phân cấp sản phẩm khác. Bởi vậy, họ thường tránh sản xuất các loại sản phẩm phân cấp đặc biệt mặc dù nó mang lại lợi nhuận cao hơn. Thường là các hãng sản xuất nhỏ (hoặc lâu năm) mới duy trì sự tồn tại của mình bằng việc chuyển đổi phân cấp sản phẩm sản xuất[2][3].