Mì ăn liền
From Wikipedia, the free encyclopedia
Mì ăn liền (cách gọi chủ yếu được dùng trong ngôn ngữ viết, ít khi đựoc dùng trong khẩu ngữ), còn gọi là mì tôm (cách gọi trong phương ngữ tiếng Việt miền Bắc), mì gói (phương ngữ tiếng Việt miền Nam), là một sản phẩm ngũ cốc ăn liền, dạng khô và được đóng gói cùng gói bột súp, dầu gia vị, nguyên liệu sấy khô,… Gia vị thường được đóng thành từng gói riêng hoặc được rót sẵn chung với vắt mì (mì ly). Khi ăn chỉ cần đổ nước sôi vào hoặc có thể ăn sống. Sản phẩm này đặc trưng bằng việc sử dụng quá trình gelatin hóa sơ bộ và khử nước bằng cách chiên (mì chiên) hoặc sấy (mì không chiên).
Bài viết này có thể cần được viết lại toàn bộ để thỏa mãn tiêu chuẩn chất lượng của Wikipedia. (tháng 3/2022) |
Bài viết hoặc đoạn này có văn phong hay cách dùng từ không phù hợp với văn phong bách khoa. (tháng 3/2022) |
Mì ăn liền ở dạng vắt mì điển hình (khô) | |
Loại | Mì |
---|---|
Xuất xứ | Nhật Bản |
Vùng hoặc bang | Ban đầu là Đông Á, Đông Nam Á và Nam Á,[1] hiện có thể thấy ở hầu hết trên thế giới |
Sáng tạo bởi | Ando Momofuku |
Thành phần chính | Mì khô hoặc nấu chín trước, gia vị |
Nguyên liệu chính tạo nên vắt mỳ là bột lúa mì, dầu dùng để chiên mì là dầu cọ, phối trộn cùng là nước và một số thành phần phụ gia, gia vị khác. Màu vàng của vắt mì được tạo nên từ chiết xuất củ nghệ hoặc chiết xuất trái dành dành, bên cạnh đó E102 cũng được dùng trong hàm lượng cho phép. Các thành phần phổ biến trong gói bột xúp là muối, đường, bột ngọt, hạt nêm… Gói dầu gồm dầu tinh luyện được nấu chung với các gia vị như hành, tỏi, rau om… Mì chiên phổ biến ở Châu Á trong khi mì không chiên lại phổ biến ở các nước phương Tây.
Mì ăn liền được phát minh bởi Ando Momofuku, người sáng lập Tập đoàn Nissin Foods tại Nhật Bản. Sản phẩm được ra mắt vào năm 1958 với thương hiệu Chikin Ramen. Năm 1971, Nissin giới thiệu Cup Noodles, sản phẩm mì ly đầu tiên. Mì ăn liền được bán trên thị trường toàn thế giới dưới nhiều thương hiệu.
Ramen, một loại mì nước của Nhật Bản, đôi khi được một số nhà sản xuất mì ăn liền Nhật Bản sử dụng làm mô tả cho hương vị mì ăn liền. Nó đã trở thành đồng nghĩa ở Mỹ cho tất cả các sản phẩm mì ăn liền.
Do tính linh hoạt của mì ăn liền có thể được dùng thay thế cho các loại mì sợi điển hình. Nó được sử dụng để làm các món ăn như ramen, budae-jjigae (món hầm của quân đội Hàn Quốc) và sao miến (mì xào, 炒麵).