Thành viên:Ti2008/nháp
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 14 hoặc 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh Trần Khâm (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì từ ngày 8 tháng 11 năm 1278 đến ngày 16 tháng 4 năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được sử Việt đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước.[1][2] Ngoài ra, ông cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại.[3]
Trần Nhân Tông 陳仁宗 | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vua Việt Nam | |||||||||||||||||
Hình ảnh Thượng hoàng Nhân Tông trong tác phẩm Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ được cho là của Trần Giám Như. | |||||||||||||||||
Hoàng đế Đại Việt | |||||||||||||||||
Trị vì | 8 tháng 11 năm 1278 – 16 tháng 4 năm 1293 | ||||||||||||||||
Thượng hoàng | Trần Thánh Tông | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Trần Thánh Tông | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Trần Anh Tông | ||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | (1258-12-07)7 tháng 12, 1258 Thăng Long, Đại Việt | ||||||||||||||||
Mất | 14 hoặc 16 tháng 12, 1308 (50 tuổi) Am Ngọa Vân, núi Yên Tử | ||||||||||||||||
An táng | Lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, Đại Việt | ||||||||||||||||
Vợ | |||||||||||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Tước vị |
| ||||||||||||||||
Hoàng tộc | Hoàng triều Trần | ||||||||||||||||
Thân phụ | Trần Thánh Tông | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Nguyên Thánh hoàng hậu | ||||||||||||||||
Tôn giáo | Phật giáo Đại thừa |
Là con trai trưởng của Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đã được truyền ngôi vào tháng 11 năm 1278 – lúc ông chưa đầy 20 tuổi. Vị hoàng đế trẻ sớm phải đương đầu với hiểm họa xâm lược từ đế quốc Mông – Nguyên hùng mạnh ở phương Bắc. Do vậy, ngay sau khi lên ngôi Trần Nhân Tông đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức mạnh kinh tế và ổn định chính trị – xã hội của Đại Việt, đồng thời xây dựng quan hệ tích cực với nước láng giềng phía nam là Chiêm Thành. Năm 1285, hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt huy động một lực lượng lớn (theo Đại Việt sử ký toàn thư là 50 vạn người) tấn công Đại Việt.[4][5] Quân dân Đại Việt ban đầu gặp nhiều tổn thất; nhưng dưới sự chỉ huy của vua Nhân Tông, thượng hoàng Thánh Tông và Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo, người Việt đã dần dần xoay chuyền tình thế và đánh bật quân Nguyên về nước. Sau đó, 2 vua Trần và Hưng Đạo vương tiếp tục lãnh đạo dân Việt đánh bại một cuộc xâm lược khác của Mông – Nguyên vào năm 1287.
Sau khi đẩy lùi các cuộc xâm lược của người Mông, Trần Nhân Tông đã khôi phục được sự hưng thịnh của Đại Việt, đồng thời thực thi phương sách ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Năm 1293, ông truyền ngôi cho thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng.[2][6] Sau đó Nhân Tông xuất gia tu hành theo đạo Phật và lấy hiệu Trúc Lâm đại sĩ (竹林大士); nhưng ông vẫn tham gia điều hành chính sự, đánh dẹp quân Ai Lao xâm phạm biên giới và mở rộng bờ cõi về phương Nam bằng phương pháp ngoại giao.[7] Trần Nhân Tông cũng chính là vị tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam và tinh thần nhập thế.[8]