Nhóm ngôn ngữ Sami
From Wikipedia, the free encyclopedia
Ngữ chi Sami (còn viết là Sámi, Saami) là một phân nhóm ngôn ngữ Ural, là tiếng nói của người Sámi miền Bắc Âu (bắc Phần Lan, Na Uy, Thuỵ Điển cùng vùng viễn tây bắc Nga). Tuỳ theo cách thức phân chia, có thể có trên mười ngôn ngữ Sami. Trong tiếng Anh, tên gọi của ngữ chi này có nhiều biến thể, gồm Sámi, Sami, Saami, Saame, Sámic, Samic, Saamic, cùng với đó là ngoại danh Lappish và Lappic. Hai từ cuối, cùng với Lapp, nay được coi là mang ý miệt thị.[4]
Thông tin Nhanh Ngữ chi Sami, Sử dụng tại ...
Ngữ chi Sami | |
---|---|
Ngữ chi Sámi, ngữ chi Saami | |
Sử dụng tại | Phần Lan, Na Uy, Nga, Thuỵ Điển |
Khu vực | Sápmi |
Dân tộc | Người Sami |
Phân loại | Ngữ hệ Ural
|
Ngôn ngữ tiền thân | Sami nguyên thủy
|
Địa vị chính thức | |
Ngôn ngữ chính thức tại | Na Uy;[1][2] được công nhận là ngôn ngữ thiểu số tại nhiều nơi ở Phần Lan, Thuỵ Điển. |
Mã ngôn ngữ | |
ISO 639-2 | smi |
ISO 639-3 | tùy trường hợp:sma – Namsju – Umesje – Pitesmj – Lulesme – Bắcsjk – Kemismn – Inarisms – Skoltsia – Akkalasjd – Kildinsjt – Ter |
Glottolog | saam1281 [3] |
Phân bố hiện tại của các ngôn ngữ Sami: 1. Nam Sami, 2. Sami Ume, 3. Sami Pite, 4. Sami Lule, 5. Bắc Sami, 6. Sami Skolt, 7. Sami Inari, 8. Sami Kildin, 9. Sami Ter. Vùng vàng sậm là nơi công nhận ngôn ngữ Sami là ngôn ngữ thiểu số hay chính thức. |
Đóng
Bài viết này có chứa ký tự đặc biệt. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác. |