Trần Anh Tông
hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại Việt (1293–1314) / From Wikipedia, the free encyclopedia
Trần Anh Tông (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là Trần Thuyên (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại Việt. Ông ở ngôi từ tháng 4 năm 1293 đến tháng 4 năm 1314, rồi làm Thái thượng hoàng từ năm 1314 đến khi qua đời. Được đánh giá là một vị hoàng đế anh minh, chăm lo quốc sự, triều đại của Anh Tông chứng kiến một giai đoạn phát triển hưng thịnh của Đại Việt sau 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. Thời kỳ của ông và con ông đánh dấu sự hưng thịnh của vương triều nhà Trần.
Trần Anh Tông 陳英宗 | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vua Việt Nam | |||||||||||||||||
Chân dung Trần Anh Tông trong tác phẩm Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ (k. 1363), Bảo tàng tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc. | |||||||||||||||||
Hoàng đế Đại Việt | |||||||||||||||||
Trị vì | 16 tháng 4 năm 1293 – 3 tháng 4 năm 1314 (20 năm, 352 ngày) | ||||||||||||||||
Thái thượng hoàng | Trần Nhân Tông (1293–1308) | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Trần Nhân Tông | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Trần Minh Tông | ||||||||||||||||
Thái thượng hoàng Đại Việt | |||||||||||||||||
Tại vị | 3 tháng 4 năm 1314 – 21 tháng 4 năm 1320 (6 năm, 18 ngày) | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Trần Nhân Tông | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Trần Minh Tông | ||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 25 tháng 10 năm 1276 | ||||||||||||||||
Mất | 21 tháng 4 năm 1320 (43 tuổi) Cung Trùng Quang, Thiên Trường, Đại Việt | ||||||||||||||||
An táng | 10 tháng 1 năm 1321 Thái lăng, Yên Sinh, Đại Việt | ||||||||||||||||
Hậu phi | xem danh sách | ||||||||||||||||
Hậu duệ | xem danh sách | ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Tước vị | Anh Hoàng (英皇, 1293 - 1314) Ứng Thiên Quảng Vận Nhân Minh Thánh Hiếu Hoàng Đế 應天廣運仁明聖孝皇帝 | ||||||||||||||||
Hoàng tộc | Hoàng triều Trần | ||||||||||||||||
Thân phụ | Trần Nhân Tông | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Bảo Thánh Hoàng hậu | ||||||||||||||||
Tôn giáo | Phật giáo Đại thừa |
Trần Thuyên là là đích trưởng tử của Trần Nhân Tông Trần Khâm (vua thứ 3 triều Trần) và là đích trưởng tôn của Trần Thánh Tông Trần Hoảng (vua thứ 2 triều Trần). Năm 1293, sau khi đánh bại các đợt xâm lược của Nguyên-Mông, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Thuyên, tức Hoàng đế Anh Tông. Theo bộ chính sử Đại Việt, Đại Việt Sử ký Toàn thư, Trần Anh Tông ban đầu khá buông thả, mê rượu chè, nhưng sau khi Thượng hoàng Trần Nhân Tông nghiêm khắc răn bảo, đã chịu tu sửa mình, trở thành một hoàng đế anh minh sáng suốt, tin dùng những nhân tài như Trương Hán Siêu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn (ban văn) và Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật (ban võ).[1] Trong thời kỳ trị vì của ông, Đại Việt phát triển hưng thịnh, dù phải chống lại một số đợt xâm lấn của Ai Lao trên hướng Tây.[2][3] Vua Anh Tông sử dụng tướng tài Phạm Ngũ Lão đánh bại quân Ai Lao. Ông còn ngăn chặn sự lấn chiếm của người Nguyên ở biên giới phía Bắc, và mở rộng lãnh thổ Đại Việt về phương Nam thông qua cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân công chúa (em gái ông) với vua Chiêm Thành.[4][5] Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Mạnh (tức vua Trần Minh Tông) vào năm 1314, Thượng hoàng Anh Tông tiếp tục hỗ trợ Minh Tông cai quản nước Việt.
Giống như các tiên đế, Trần Anh Tông là một Phật tử mộ đạo. Năm 1299, Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia và sáng lập Thiền phái Trúc Lâm – giáo hội thống nhất đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Trần Anh Tông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của giáo hội này, qua việc khuyến khích các thiền sư phái Trúc Lâm thuyết pháp ở nhiều nơi, cúng dường tiền của, vật liệu cho việc xây chùa, tháp và vận động các thành viên hoàng gia làm thế. Ông cũng hay sáng tác thơ ca, nhưng ngày nay chỉ còn 12 bài chép trong Việt âm thi tập.