Trận Xuân Lộc
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến dịch Xuân Lộc hay Trận Xuân Lộc, tên đầy đủ là Chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh, là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch diễn ra trong khoảng 9 tháng 4 - 20 tháng 4 năm 1975 giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đối đầu Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) với sự hỗ trợ của Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam.
Các chú thích trong bài hoặc đoạn này phải hoàn chỉnh hơn để có thể được kiểm chứng. |
Bạn có thể mở rộng bài này bằng cách dịch bài viết tương ứng từ Tiếng Anh. Nhấn [hiện] để xem các hướng dẫn dịch thuật.
|
Chiến dịch Xuân Lộc | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Việt Nam | |||||||
Mặt trận Xuân Lộc | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam Việt Nam Cộng hòa |
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Frederick Carlton Weyand Thiếu tướng Lê Minh Đảo |
Tư lệnh Hoàng Cầm Chính ủy Hoàng Thế Thiện | ||||||
Lực lượng | |||||||
Trên toàn tuyến: 35.000, trong đó tại Xuân Lộc là 25.000[2] 100 xe tăng-xe thiết giáp, 54 khẩu pháo, 150 máy bay |
Trên toàn tuyến: 45.000. Tại Xuân Lộc: không rõ Vài chục xe tăng - xe thiết giáp, 40 pháo xe kéo và 30 pháo cỡ nhỏ | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
2.056 chết và bị thương, 2.731 bị bắt[3][4] 42 xe tăng - xe thiết giáp, 16 ô tô, 18 khẩu pháo bị phá hủy 48 ô tô, 1.499 súng các loại bị tịch thu |
Nguồn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam: khoảng 2.100 chết hoặc bị thuơng (tính riêng Quân đoàn 4: 460 chết, 1.428 bị thương).[5][6] | ||||||
Trận này là một mốc quan trọng của quá trình tiến tới sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vì Xuân Lộc là khu vực phòng thủ trọng yếu trong tuyến phòng thủ cơ bản (Biên Hòa - Xuân Lộc - Bà Rịa - Vũng Tàu) của QLVNCH để phòng thủ cửa ngõ phía đông của Sài Gòn.
Lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tham chiến gồm có: Quân đoàn 4 (thiếu Sư đoàn 9) tăng cường Sư đoàn bộ binh 6 (Quân khu 7), ngoài ra còn một trung đoàn tăng, thiết giáp, một trung đoàn pháo binh, sau còn được tăng cường thêm Trung đoàn 95B (Sư đoàn bộ binh 325) và một đại đội xe tăng (tổng quân số khoảng 40.000[cần dẫn nguồn]) do Thiếu tướng Hoàng Cầm làm tư lệnh và Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện làm chính ủy, bị thương vong khoảng 2.000 người (trong đó 1.888 người bị thương vong thuộc về Quân đoàn 4 theo số liệu của Việt Nam).
Quân lực Việt Nam Cộng hoà có quân số khoảng 14.000 người, gồm Sư đoàn 18 Bộ binh (với các Trung đoàn 43, 48 và 52),Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân, lực lượng Địa phương quân, nghĩa quân Long Khánh và các đơn vị tăng phái gồm Trung đoàn 8 (thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh), Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, Liên đoàn 33 Biệt động quân, hai tiểu đoàn pháo binh, Lữ đoàn 1 Dù (với các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9) và Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù. Ngoài ra còn được sự hỗ trợ của 2 sư đoàn Không quân từ phi trường Biên Hòa và Cần Thơ yểm trợ chiến thuật. Toàn bộ tuyến phòng ngự do Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 chỉ huy, bị thương vong 2.056 người,[3] 2.731 bị bắt, chiến đoàn 52 bị đánh tan, Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 1 Dù bị thiệt hại nặng.[4]