Trận sông Dniepr
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trận sông Dniepr là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời là một trận đánh lớn của Chiến tranh thế giới thứ hai. Diễn ra trên phần phía Nam của khu vực trung tâm và suốt chiều dài cánh Nam mặt trận Xô-Đức với tổng độ dài mặt trận lên đến hơn 1.600 km trên toàn bộ phần tả ngạn sông Dniepr và vùng Donbass, chuỗi các chiến dịch này đã thu hút khoảng 3.900.000 sĩ quan và binh sĩ của cả hai bên tham chiến. Quân đội Đức Quốc xã huy động 8 tập đoàn quân, trong đó có 2 tập đoàn quân xe tăng và 2 tập đoàn quân không quân với hơn 70 sư đoàn tham chiến. Ngoài ra, còn có 6 sư đoàn quân Romania chiến đấu trong đội hình các tập đoàn quân 6 và 17 (Đức). Quân đội Liên Xô huy động 5 phương diện quân với 38 tập đoàn quân trong đó 4 tập đoàn quân xe tăng và 5 tập đoàn quân không quân.[10] Tham chiến bên phía quân đội Liên Xô còn có Lữ đoàn Tiệp Khắc 1 tham gia trong đội hình Phương diện quân Voronezh (từ ngày 20 tháng 10 năm 1943 đổi thành Phương diện quân Ukraina 1).[11]
Trận sông Dniepr | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Mặt trận phía Đông trong Thế chiến thứ hai | |||||||||
Bản đồ mô tả tác chiến trong trận sông Dniepr | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Liên Xô |
Đức România Slovakia | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
Georgy Zhukov Aleksandr Vasilevsky Nikolai Vatutin Ivan Konev Rodion Malinovsky Fyodor Tolbukhin Konstantin Rokossovsky |
Erich von Manstein Ewald von Kleist Günther von Kluge | ||||||||
Thành phần tham chiến | |||||||||
Phương diện quân Ukraina 1 Phương diện quân Ukraina 2 Phương diện quân Ukraina 3 Phương diện quân Ukraina 4 Phương diện quân Belorussia 1 |
| ||||||||
Lực lượng | |||||||||
26 tháng 8: 2.633.000 người (1.450.000 quân tiếp viện)[2] 51.200 pháo cối[2] 2.400 xe tăng và pháo tự hành[2] 2.850 máy bay chiến đấu[2] |
1 tháng 11, 1943:[3] Cụm tập đoàn quân Nam: 722.376 người; Tập đoàn quân số 6: 182.236 người; Tập đoàn quân số 2: 200.111 người; Tổng cộng- 1.104.723 người. Lực lượng thiết giáp của Cụm tập đoàn quân Nam từ 10 tháng 11, 1943:[4] - 713 xe tăng; Đang sửa chữa: Lực lượng Luftflotte 4 vào 10 tháng 10, 1943:[5] 1 tháng 11, 1943:[6] 85.564 người. | ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
Krivosheev: 1.285.977 người[7]
Frieser: 1.687.164 người[8]
- 290.000 tử trận hoặc mất tích - hơn 1.000.000 thương vong tổng cộng |
Đức Forczyk:[9] - 102.000 tử trận hoặc mất tích - hơn 372.000 thương vong tổng cộng Vương quốc România Không rõ |
Trong thời gian gần 4 tháng (từ ngày 26 tháng 8 đến ngày 23 tháng 12 năm 1943), trên toàn bộ vùng phía đông Ukraina và Nam Nga đã diễn ra 11 chiến dịch tấn công và phòng ngự của quân đội Liên Xô với giai đoạn:
- Giai đoạn đầu khởi sự ở giữa mặt trận ngày 23 tháng 8 bằng Chiến dịch Chernigov-Poltava và kết thúc ngày 30 tháng 9 với các chiến dịch Sumsky-Prilukskaya và Poltava-Kremenchuk. Đây là giai đoạn quân đội Liên Xô tạo các bàn đạp tấn công.[12] Vì không còn có khả năng tổ chức những chiến dịch tấn công quy mô lớn trên mặt trận phía đông nên sau các đoàn phản công đợt đầu của quân đội Liên Xô, Bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã quyết định chỉ tiến hành những đòn phản kích nhằm kìm hãm tốc độ tấn cong của quân đội Liên Xô để rút các lực lượng còn lại sang bờ Tây sông Dniepr, áp dụng chiến thuật bức tường thép đã thực hiện tại Rostov đầu năm 1943 để tổ chức Tuyến phòng thủ Wotan (còn gọi là "Bức tường phía đông"). Adolf Hitler ra lệnh cho Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) phải giữ được phòng tuyến này, bao gồm cả thành phố Kiev bằng mọi giá. Trong quá trình rút lui sang bờ Tây của sông Dnepr của quân Đức diễn ra trong trận mưa bom và pháo kích của quân đội Liên Xô. Các trận không chiến cũng diễn ra quyết liệt trên dải không phận dọc sông Dniepr.[13]
- Giai đoạn sau bắt đầu ở hạ lưu sông Dniepr ngày 26 tháng 9 bởi Chiến dịch Nizhni Dnieprovsk và kết thúc đúng một tuần trước khi bước sang năm mới 1944 bằng chiến dịch Dniepropetrovsk. Kết quả của giai đoạn này là quân đội Liên Xô thu hồi toàn bộ phần Đông lãnh thổ Ukraina và một phần lãnh thổ Nga, tiến về phía tây từ 300 đến 450 km, đánh chiếm toàn bộ bờ tả ngạn sông Dniepr và thành phố Kiev. Ngoài ra, quân đội Liên Xô còn chiếm được nhiều căn cứ đầu cầu quan trọng tại Novo Shepelichi (???), Chernobyl, Kanev, Cherkassy, Kremenchug, Verkhne Dnieprovsk, Maganets, Berislav, toàn bộ khu vực Kiev ở phía bắc và Znamenka - Pyatikhatka ở phía nam làm bàn đạp cho Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr kế tiếp ngay sau đó, thu hồi lại toàn bộ lãnh thổ Ukraina và tiến ra tuyến biên giới quốc gia của Liên Xô.[14]
Trong chiến dịch, có một số trận đánh lớn diễn ra tương đối độc lập với các chiến dịch là cuộc đổ bộ đường không ở Bukrin và các trận tấn công và phòng thủ Kiev năm 1943.
Một kết quả khác của chiến dịch này là toàn bộ Tập đoàn quân 17 (Đức) phải rút về Krym và hoàn toàn bị cô lập với chủ lực quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông, tạo điều kiện thuận lợi cho Tập đoàn quân ven biển (nguyên là Phương diện quân Bắc Kavkaz tiến hành thành công chiến dịch Kerch (1943), đổ bộ Tập đoàn quân 56 và Sư đoàn bộ binh 318 lên bán đảo Kerch đánh chiếm hai căn đầu cầu quan trọng tại khu vực tam giác Ossoviny, Mayak, Enikalye và bãi biển Eltigen, làm căn cứ đầu để tấn công Krym từ phía đông, phối hợp với Phương diện quân Nam (Liên Xô) tấn công từ phía bắc qua eo đất Perekop, thu hồi toàn bộ bán đảo Krym vào mùa xuân năm 1944.[15]