một phần của biển nông so với khu vực xung quanh của nó From Wikipedia, the free encyclopedia
Bãi ngầm (tiếng Anh: bank) là một địa hình đáy đại dương với đỉnh nằm ở độ sâu dưới 200 mét so với mực nước biển nhưng không gần mặt nước đến mức gây nguy hiểm cho tàu thuyền.[1] Địa hình này có mặt tại thềm lục địa hay gần các hòn đảo.[2] Loại địa hình tương tự nhưng sâu hơn 200 m được gọi là cao nguyên đại dương, trong khi những bãi ngầm có đỉnh gần mặt nước và có thể gây nguy hiểm cho lưu thông được gọi là bãi cạn.[1] Một số bãi ngầm là những vùng đánh bắt cá quan trọng.
Các bãi ngầm lớn Newfoundland (280.000km²) - bãi ngầm có nguồn lục địa
Bãi ngầm Bahama Lớn (95.798,12km², chưa kể diện tích các đảo)
Bãi ngầm Saya de Malha (35.000km², không tính bãi ngầm North, sâu tối thiểu 7 m)
Bãi ngầm Seychelles (31.000km², bao gồm 266km² diện tích các đảo)
Bãi ngầm Georges (28.800km²) - bãi ngầm có nguồn lục địa
Bãi ngầm Lansdowne (21.000km², phía tây Nouvelle-Calédonie, sâu tối thiểu 3,7 m)
Bãi ngầm Dogger (17.600km², sâu tối thiểu 13 m)
Bãi ngầm Bahama Nhỏ (14.260,64km², chưa kể diện tích các đảo)
Bãi ngầm Great Chagos (12.642km², bao gồm 4,5km² diện tích các đảo)
United States. Army. Corps of Engineers, Coastal Engineering Research Center (1984), Shore Protection Manual, 1 (ấn bản thứ 4), Department of the Army, Waterways Experiment Station, Corps of Engineers, Coastal Engineering Research Center