![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/b/b2/Soviet_soldiers_in_Budapest_1945.jpg/640px-Soviet_soldiers_in_Budapest_1945.jpg&w=640&q=50)
Chiến dịch Budapest
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến dịch Budapest (Tiếng Nga:Будапештская операция) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại Mặt trận Hungary thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong các năm 1944-1945. Cuộc chiến diễn ra chủ yếu trên địa bàn thủ đô Budapest của Hungary và một số vùng lân cận. Đây là một trong các chiến dịch phức tạp và khó khăn đối với quân đội Liên Xô tại Trung Âu. Chiến dịch này kéo dài qua gần 4 tháng kể từ ngày 29 tháng 10 năm 1944, khi STAVKA ra mệnh lệnh yêu cầu Phương diện quân Ukraina 2 tiến hành các cuộc tấn công trên hướng Budapest, cho đến lúc toàn bộ số quân Đức và Hungary còn sống sót tại Budapest hạ vũ khí đầu hàng ngày 13 tháng 2 năm 1945. Chiến thắng của Hồng Quân Liên Xô trước quân đội Hungary đã loại bỏ đồng minh cuối cùng của nước Đức Quốc xã ở châu Âu, mở ra cơ hội kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai ở Trung và Đông Âu trong một tương lai gần.[4]
Chiến dịch Budapest | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Mặt trận Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai | |||||||||
![]() Bộ binh Liên Xô tại Budapest. | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
![]() |
![]() ![]() | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() | ||||||||
Lực lượng | |||||||||
Phương diện quân Ukraina 2 Phương diện quân Ukraina 3 | Cụm Tập đoàn quân Nam | ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
80.026 chết hoặc mất tích 240.056 bị thương hoặc bị ốm[2] |
Chỉ tính trong khu vực Budapest: 49.000 chết và mất tích 110.000 bị bắt 260 xe tăng[3] Toàn chiến dịch: khoảng 300.000 - 350.000 chết, bị bắt hoặc bị thương | ||||||||
40.000 dân thường chết | |||||||||
Chiến dịch Budapest bị ngắt quãng thành năm giai đoạn:[5]
- Giai đoạn thứ nhất diễn ra từ ngày 29 tháng 10 đến hết ngày 3 tháng 11 năm 1944. Trong giai đoạn này, các cuộc tấn công của quân đội Liên Xô trên toàn bộ mặt trận của Phương diện quân Ukraina 2 đã không đột phá được phòng tuyến của quân đội Đức Quốc xã trên tuyến sông Tisza. Tập đoàn quân 46 (Liên Xô) trên cánh trái chỉ tiến thêm được 4 đến 6 km/ngày và tiếp cận tuyến sông Danube ở Baja. Ở giữa mặt trận Tập đoàn quân cận vệ 7 hầu như bị kẹt trong bùn lầy đầu mùa đông. Các quân đoàn cơ giới cận vệ 2 và 4 cũng phải dừng lại khi còn cách ngoại ô Budapest 15 km về phía Đông Nam. Ở cánh phải, các tập đoàn quân 27, 40, 53 (Liên Xô), 4 (Romania) và Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliyev chưa có cách gì để vượt qua phòng tuyến cứng rắn của quân Đức trên tuyến sông Tisza.
- Giai đoạn thứ hai diễn từ ngày 7 tháng 11 đến hết ngày 24 tháng 11 năm 1944. Kết quả của giai đoạn này cũng như giai đoạn thứ nhất. Hai bên bất phân thắng bại với những tổn thất lớn về về người và vũ khí, phương tiện.
- Giai đoạn thứ ba diễn ra từ ngày 3 tháng 12 đến hết ngày 26 tháng 12 năm 1944. Lần này, với sự tham gia của Phương diện quân Ukraina 3 phối hợp với Phương diện quân Ukraina 2 làm cho mật độ tấn công của quân đội Liên Xô dày đặc hơn. Quân đội Đức Quốc xã cũng tập trung một lực lượng xe tăng rất mạnh để phòng thủ Budapest. Kết thúc giai đoạn này, hai cánh quân xung kích của Phương diện quân Ukraina 2 (Tập đoàn quân xe tăng 6) và Phương diện quân Ukraina 3 (Quân đoàn xe tăng 18) gặp nhau tại khu vực Esztergom, bao vây gần 190.000 quân Đức và Hungary trong vòng vây tại Budapest. Vì để thất lợi trên hướng Budapest, ngày 28 tháng 12, tướng Johannes Frießner bị cách chức; tướng Otto Wöhler được Bộ Tổng tư lệnh Lục quân Đức chỉ định là Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam.
- Giai đoạn thứ tư diễn ra từ đêm ngày 1 rạng ngày 2 tháng 1 năm 1945 đến ngày 26 tháng 1 năm 1945. Với sự tham gia của 13 sư đoàn xe tăng và 2 sư đoàn cơ giới, quân đội Đức Quốc xã mở cuộc phản công nhằm giải vây cho Cụm quân Budapest của tướng Karl Pfeffer-Wildenbruch. Ngày 20 tháng 1 năm 1945, xe tăng Đức đã vọt tiến đến sông Danube tại khu vực Dunapentele, phía Nam Budapest 25 km, đe dọa chia cắt đội hình của Phương diện quân Ukraina 2 trên hướng Nam Budapest. Ngày hôm sau, các trung đoàn pháo tự hành của Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 và 4 được điều đến bịt cửa đột phá. Đây là mũi phản công xa nhất mà quân đội Đức Quốc xã đạt được khi cố giải vây Budapest.
- Giai đoạn thứ năm diễn ra từ ngày 27 tháng 1 đến ngày 13 tháng 2 năm 1945. Cụm quân Đức bị vây tại khu vực Budapest còn cố gắng kháng cự thêm nửa tháng nữa trước khi hạ vũ khí đầu hàng.
Xen giữa 5 giai đoạn này là những diễn biến chính trị, quân sự. Ngày 21 tháng 12 năm 1944, Mặt trận dân tộc độc lập Hungary đã họp tại thành phố Debrecen và lập ra Quốc hội lâm thời và Chính phủ lâm thời Hungary đối địch với Chính phủ của tướng Ferenc Szálasi. Thượng tướng Béla Miklós, nguyên tư lệnh Tập đoàn quân 1 (Hungary) được bầu làm Thủ tướng. Thượng tướng János Verijos, nguyên Tổng tham mưu trưởng quân đội Hungary dưới thời Horthy Miklós chạy sang phía quân đội Liên Xô sau vụ đảo chính ở Budapest được chỉ định làm Bộ trưởng chiến tranh trong chính phủ lâm thời. Chính phủ này đã ký hiệp định đình chiến với đồng minh Liên Xô, Anh và Mỹ.[6]
Chiến dịch Budapest hầu như đã đánh sập những binh đoàn chủ lực của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức). Mặc dù đầu tháng 3, Quân đội Đức Quốc xã cố gắng mở một chiến dịch tấn công lớn bằng xe tăng tại khu vực hồ Balaton nhằm hất cẳng quân đội Liên Xô sang bên kia sông Danube nhưng không thành công. Quân đội Liên Xô và các đồng minh chống phát xít như Nam Tư, Romania, Bulgaria đã mở rộng con đường tấn công Viên, Tiệp Khắc và tiếp cận biên giới phía Nam nước Đức.[7]