Chiến dịch Linebacker II
Chiến dịch ném bom của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến dịch Linebacker II, hay còn được biết đến là Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong Chiến tranh Việt Nam, từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972 sau khi Hội nghị Paris bế tắc và đổ vỡ do hai phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ bất đồng về các điều khoản trong hiệp định.
Chiến dịch Linebacker II | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Việt Nam | |||||||
Máy bay ném bom chiến lược B-52 đang ném bom rải thảm | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Không lực Hoa Kỳ | |||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
John Dale Ryan, Tư lệnh Tập đoàn không quân chiến lược số 8 John W. Vogt Jr, Phó tư lệnh không quân chiến thuật Thiếu tướng Andrew B. Anderson Jr, Tư lệnh Sư đoàn không quân chiến lược lâm thời 57. Thiếu tướng Glenn R. Sulivan, Tư lệnh Sư đoàn không quân chiến lược lâm thời số 17 Đại tá Dudley G. Kavanaugh, Chỉ huy trưởng Sư đoàn không quân hậu cần chiến lược 376 Đại tá James R. McCarthy, Chỉ huy trưởng không đoàn B-52 số 43 Đại tá Thomas F. Rew, Chỉ huy trưởng Không đoàn B-52 số 72 Đại tá Donald M Davis, Chỉ huy trưởng Không đoàn B-52 số 307 Đại tá Stanley C. Beck, Chỉ huy trưởng Không đoàn B-52 số 310. |
Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng Thiếu tướng Phùng Thế Tài, Phó tổng tham mưu trưởng Đại tá Lê Văn Tri, Tư lệnh quân chủng phòng không - Không quân Thiếu tướng Hoàng Phương, Chính ủy Quân chủng Đại tá Nguyễn Quang Bích, Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân Đại tá Hoàng Văn Khánh, Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân Đại tá Trần Quang Hùng, Tư lệnh Sư đoàn phòng không 361 Đại tá Trần Văn Giang, Chính ủy Sư đoàn 361 Đại tá Bùi Đăng Tự, Tư lệnh Sư đoàn phòng không 363 Thượng tá Vũ Trọng Cảnh, Chính ủy Sư đoàn 363 | ||||||
Lực lượng | |||||||
197 đến 207 máy bay ném bom chiến lược B-52, 14 liên đội không quân chiến thuật gồm 1.077 máy bay các loại từ 3 căn cứ không quân và 6 tàu sân bay[1] | Lực lượng phòng không và không quân và dân quân (trong đó có 23 tiểu đoàn tên lửa SA-2 và khoảng 50 máy bay tiêm kích MiG).[2] | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Số liệu từ Hoa Kỳ:[3] Số liệu của Việt Nam:[5] gồm có 34 B-52 (16 chiếc rơi tại chỗ) và 5 chiếc F-111[6] |
2.368 thường dân thiệt mạng, 1.355 thường dân bị thương |
Chiến dịch này là sự nối tiếp của chiến dịch ném bom Linebacker diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1972, ngoại trừ điểm khác biệt lớn là lần này Hoa Kỳ sẽ tấn công dồn dập bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 thay vì các máy bay ném bom chiến thuật, mục đích là dùng sức mạnh và biện pháp không hạn chế đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tại chiến dịch này, Hoa Kỳ đã huy động loại máy bay ném bom chiến lược mạnh nhất của họ là pháo đài bay B-52 làm nòng cốt để ném bom rải thảm huỷ diệt xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Lạng Sơn và các mục tiêu khác liên tục trong 12 ngày đêm. Đây là những cuộc ném bom dữ dội nhất trong Chiến tranh Việt Nam và là một trong những cuộc tập kích có cường độ cao nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh. Trong 12 ngày, Mỹ đã thả hơn 36.000 tấn bom, vượt quá khối lượng bom đã ném xuống miền Bắc Việt Nam trong toàn bộ thời kì từ 1969 đến 1971.[9]
Cuộc ném bom tuy có gây những tổn thất nặng về cơ sở vật chất cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhưng đã không làm thay đổi được lập trường của lãnh đạo nước này về nội dung cơ bản của hiệp định hoà bình, đồng thời nó gây một làn sóng bất bình lớn của người Mỹ, dư luận và chính giới của các nước trên thế giới trong đó có cả các đồng minh lâu dài của Hoa Kỳ, uy tín của Chính phủ Hoa Kỳ bị xuống thấp nghiêm trọng. Bị phản đối trong nước, bị cô lập trên trường quốc tế, gặp phải sự chống trả hiệu quả gây thiệt hại lớn cho lực lượng không quân chiến lược, lại không thể buộc đối phương thay đổi lập trường, Tổng thống Richard Nixon đã phải ra lệnh chấm dứt chiến dịch vào ngày 30 tháng 12, đề nghị nối lại đàm phán tại Paris. Tại đây, Hoa Kỳ chấp nhận ký kết Hiệp định Paris trên cơ sở dự thảo mà trước đó họ đã từ chối ký kết (vì đây là dự thảo có những điều khoản có lợi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà). Sau chiến dịch ném bom khí thế, lòng tự hào trong Quân đội nhân dân Việt Nam và người dân tại miền Bắc Việt Nam lên rất cao: họ không chỉ đánh thắng được "thần tượng B-52" mà còn buộc Hoa Kỳ phải ký Hiệp định Paris với những nội dung có lợi cho họ, đó là những cơ sở để phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà coi chiến dịch này là một thắng lợi chiến lược to lớn.
Chiến dịch này còn có một ý nghĩa tâm lý nặng nề cho giới quân sự Hoa Kỳ: đây là chiến dịch mà phía Mỹ đã chủ động lựa chọn mục tiêu, thời điểm, phương thức chiến đấu và đặc biệt là sử dụng sở trường của mình để chống lại sở đoản của đối phương (trình độ khoa học công nghệ), một cuộc đấu mà đối phương sẽ không thể sử dụng yếu tố "du kích" – một cách hình tượng: phía Mỹ thách đấu và được quyền lựa chọn vũ khí và đã thất bại.
Chiến dịch này cũng cho thấy điểm yếu của vũ khí máy bay ném bom chiến lược của Hoa Kỳ: B-52 vũ khí chiến lược dùng để chống chọi đối thủ tiềm tàng xứng tầm là Liên Xô cho một cuộc chiến tranh công nghệ cao đã thể hiện điểm yếu ngay khi đối phương có trình độ kinh tế, quân sự, khoa học – công nghệ kém hơn nhiều, và vũ khí chống trả cũng không phải là loại cao cấp của đối phương (vào thời điểm 1972, tên lửa SAM-2 mà Việt Nam sử dụng đã bị Liên Xô thay thế bằng SAM-4 và SAM-5 mạnh hơn nhiều). Ngay sau Chiến tranh Việt Nam, vì lý do này Hoa Kỳ đã phải nỗ lực rất cao trong chạy đua vũ trang trong lĩnh vực máy bay ném bom và đã cho ra kết quả là các máy bay ném bom B-1 Lancer và B-2 Spirit tàng hình.[cần dẫn nguồn]
Ở Việt Nam, sự kiện này thường được gọi là "12 ngày đêm" và báo chí, truyền thông hay dùng hình tượng "Điện Biên Phủ trên không" để nhấn mạnh ý nghĩa thắng lợi chiến lược to lớn của sự kiện. Tên gọi này xuất phát từ lời tuyên dương của đại tướng Võ Nguyên Giáp dành cho các đơn vị lập công vào ngày 26/12/1972.