Chiến dịch Tây Nguyên
trận chiến trong Chiến tranh Việt Nam / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh Chiến dịch 275, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát động tấn công. Với cuộc tiến công của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 10 tháng 3 năm 1975 vào Buôn Ma Thuột, cánh Nam của Quân đoàn II, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bị sụp đổ. Những nỗ lực tái chiếm Buôn Ma Thuột của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) trong các trận phản công ngày 11 và 13 tháng 3 đều thất bại. Mất bình tĩnh sau các thất bại dồn dập, Ngày 14 tháng 3, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, kiêm luôn Tổng tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng hoà, đã có một bước đi hết sức sai lầm khi quyết định rút quân trên toàn địa bàn Tây Nguyên để về giữ miền duyên hải Trung Bộ. Việc rút quân tiến hành rất kém, nên chỉ ba ngày sau đó, hầu như toàn bộ Quân đoàn II Quân lực Việt Nam Cộng hoà với 60.000 quân đã bị tiêu diệt, đầu hàng hoặc tan rã trong cuộc rút quân hỗn loạn trên con đường số 7.
Chiến dịch Tây Nguyên | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến dịch mùa xuân năm 1975 | |||||||
Quân Giải phóng miền Nam tiến vào giải phóng Buôn Ma Thuột | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Việt Nam Cộng hòa | |||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Hoàng Minh Thảo Khuất Duy Tiến | Phạm Văn Phú | ||||||
Lực lượng | |||||||
65.141 người (trong đó có 43.020 quân chủ lực) 47 xe tăng, 16 xe thiết giáp, 679 ô tô, 88 khẩu pháo cỡ lớn (105 mm - 130 mm), 55 pháo phản lực cỡ nhỏ (DKB, H12) 349 dã pháo, súng không giật hoặc súng cối các cỡ 343 súng phòng không các cỡ 1561 súng chống tăng cá nhân, 6 bệ phóng tên lửa chống tăng B-72 |
78.300 người 488 xe tăng, xe thiết giáp, hàng nghìn ô tô 376 khẩu pháo cỡ lớn (105mm - 175mm), vài nghìn pháo cỡ nhỏ, súng không giật, súng cối và súng chống tăng cá nhân các loại 134 máy bay chiến đấu, 250 trực thăng, 101 máy bay trinh sát, vận tải và huấn luyện 2 hải đoàn tuần duyên, 2 giang đội trên sông | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
~800 chết, 2416 bị thương[2] |
Hơn 3/4 quân số bị chết, bị bắt hoặc tan rã. Hầu hết vũ khí hạng nặng bị phá hủy hoặc thu giữ | ||||||
Chiến dịch này đã tạo nên một lỗ hổng rất lớn trong tuyến phòng thủ quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại địa bàn Quân khu II - Quân đoàn II QLVNCH. Chiến dịch này mở đầu cho những thất bại quân sự khó có thể cứu vãn nổi của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Cùng với những sai lầm có tính chiến lược trong phương án và cách thức điều quân, phối trí lại lực lượng của các cấp chỉ huy QLVNCH mà đứng đầu là tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chiến dịch này đã tạo nên những đột biến lớn trên chiến trường mở đầu cho sự thất bại và tan rã toàn diện của QLVNCH tại miền Nam Việt Nam chỉ trong 55 ngày mùa xuân năm 1975, dẫn đến sự kết thúc Chiến tranh Việt Nam (1954-1975) và tái thống nhất Việt Nam sau 21 năm bị chia cắt.