Kỷ Silur
From Wikipedia, the free encyclopedia
Kỷ Silur hay phiên âm thành kỷ Xi-lua (Silua) là một kỷ chính trong niên đại địa chất kéo dài từ khi kết thúc kỷ Ordovic, vào khoảng 443,8 ± 1,5 triệu (Ma) năm trước, tới khi bắt đầu kỷ Devon vào khoảng 419,2 ± 3,2 Ma.[5] Giống như các kỷ địa chất khác, các tầng đá xác định sự khởi đầu và kết thúc kỷ này được xác định khá rõ, nhưng niên đại chính xác thì vẫn là không chắc chắn trong phạm vi 5-10 triệu năm. Căn cứ xác định sự bắt đầu kỷ này là một sự kiện tuyệt chủng lớn khi 60% các loài sinh vật biển đã bị đào thải. Xem Sự kiện tuyệt chủng kỷ Ordovic-kỷ Silur.
Kỷ Silur 443.8–419.2 triệu năm trước đây | |
Nồng độ O 2 trung bình trong khí quyển giai đoạn này |
Khoảng 14 Vol %[1] (70 % so với giá trị hiện tại) |
Nồng độ CO 2 trung bình trong khí quyển giai đoạn này |
Khoảng 4500 ppm[2] (16 lần giá trị tiền công nghiệp) |
Nhiệt độ bề mặt nước biển trong giai đoạn này | Khoảng 17 °C[3] (3 °C trên mức hiện đại) |
Mực nước biển (cao hơn ngày nay) | khoảng 180m, với các sự đi chệch âm ngắn hạn[4] |