Kaiser (lớp thiết giáp hạm)
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lớp thiết giáp hạm Kaiser là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ ba được Đức chế tạo, và là lớp đầu tiên được trang bị động cơ turbine cùng các tháp pháo bắn thượng tầng. Những chiếc trong lớp bao gồm: Kaiser, Friedrich der Grosse, Kaiserin, Prinzregent Luitpold và König Albert. Như thường thấy trên những thiết giáp hạm Đức đương thời, lớp Kaiser trang bị pháo chính có cỡ nòng nhỏ hơn so với các đối thủ Anh: 30,5 cm (12,0 in) so với 34,3 cm (13,5 in) trên lớp Orion Anh Quốc.[1][Ghi chú 1]
SMS Kaiser | |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Xưởng đóng tàu | |
Bên khai thác | Hải quân Đức |
Lớp trước | Lớp Helgoland |
Lớp sau | Lớp König |
Thời gian đóng tàu | 1909-1913 |
Thời gian hoạt động | 1912-1919 |
Hoàn thành | 5 |
Nghỉ hưu | 5 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | Thiết giáp hạm |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 172,4 m (565 ft 7 in) |
Sườn ngang | 29 m (95 ft 2 in) |
Mớn nước | 9,1 m (29 ft 10 in) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 21 hải lý trên giờ (39 km/h; 24 mph) |
Tầm xa | 7.900 nmi (14.630 km; 9.090 mi) ở tốc độ 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph) |
Tầm hoạt động |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 1.084 (41 sĩ quan và 1.043 thủy thủ) |
Vũ khí |
|
Bọc giáp |
|
Cả năm chiếc trong lớp đã hoạt động tại Bắc Hải trong chiến tranh; chúng cùng phục vụ với nhau như là Đội 4 của Hải đội Chiến trận 3. Bốn chiếc đã có mặt trong trận Jutland, König Albert đang ở trong ụ tàu vào lúc đó;[2] trong số bốn chiếc tham gia trận hải chiến, chỉ có Kaiser bị hư hại do trúng hai quả đạn pháo hạng nặng.[3] Các con tàu cũng tham gia Chiến dịch Albion tại biển Baltic; khi chúng được tái tổ chức thành Hải đội Chiến trận 4 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Wilhelm Souchon.[4]
Khi chiến tranh kết thúc, cả năm chiếc trong lớp đều bị lưu giữ tại căn cứ Hải quân Anh ở Scapa Flow. Vào ngày 21 tháng 6 năm 1919, chúng bị đánh đắm để tránh không bị Hải quân Hoàng gia Anh chiếm giữ. Sau này các con tàu lần lượt được cho trục vớt và tháo dỡ từ năm 1929 đến năm 1937.[5]