Kanon
visual novel dành cho người lớn phát hành năm 1999 ở Nhật Bản / From Wikipedia, the free encyclopedia
Kanon (Nhật: カノン, Kanon?) là một visual novel người lớn phát triển bởi Key, một thương hiệu thuộc Visual Art's, và phát hành tại Nhật Bản vào ngày 4 tháng 6 năm 1999 trên hệ điều hành Windows của máy tính cá nhân (PC). Kanon là trò chơi đầu tay của Key, công ty cũng phát triển nên những tác phẩm nổi tiếng khác như AIR và CLANNAD. Phiên bản dành cho mọi lứa tuổi trên PC phát hành vào tháng 1 năm 2000, sau đó được chuyển sang các hệ máy Dreamcast, PlayStation 2 và PlayStation Portable. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của Aizawa Yuichi, một nam sinh cao trung vừa về lại thành phố nơi mà anh từng đến chơi cách đây bảy năm, cùng một chút hồi ức còn sót lại về những chuyện đã xảy ra ở đó. Anh lần lượt lấy lại ký ức của mình sau khi gặp gỡ một vài cô gái bản xứ.
Kanon | |||
Bìa ấn bản đầu tiên của visual novel Kanon. | |||
カノン | |||
---|---|---|---|
Thể loại | Chính kịch, Kỳ ảo, Harem, Lãng mạn | ||
Trò chơi điện tử | |||
Phát triển | Key | ||
Phát hành | Visual Art's (Windows, Android, BDPG, iOS) Interchannel (DC, PS2) Prototype (PSP, FOMA, S3G) | ||
Kịch bản | Hisaya Naoki, Maeda Jun | ||
Minh họa | Hinoue Itaru | ||
Âm nhạc | Orito Shinji, OdiakeS, Maeda Jun | ||
Thể loại | Eroge, Visual novel | ||
Phân hạng | EOCS: 18+ (PC/BDPG)
| ||
Hệ máy | PC, DC, PS2, PSP, FOMA, S3G, Android, BDPG, iOS | ||
Ngày phát hành | |||
| |||
Light novel | |||
Tác giả | Shimizu Mariko | ||
Minh họa | Hinoue Itaru | ||
Nhà xuất bản | Paradigm | ||
Đối tượng | Nam | ||
Đăng tải | 23 tháng 10 năm 1999 – 1 tháng 8 năm 2000 | ||
Số tập | 5 | ||
Manga | |||
Tác giả | Key | ||
Minh họa | Morishima Petit | ||
Nhà xuất bản | MediaWorks | ||
Đối tượng | Shōnen | ||
Tạp chí | Dengeki Daioh | ||
Đăng tải | Tháng 2, 2000 – Tháng 7, 2002 | ||
Số tập | 2 | ||
Anime truyền hình | |||
Đạo diễn | Itō Naoyuki | ||
Sản xuất | Kawakami Daisuke, Yokota Mamoru | ||
Kịch bản | Nakamura Makoto, Yamaguchi Ryōta | ||
Thiết kế nhân vật | Ōnishi Youichi | ||
Âm nhạc | Kozu Hiroyuki, Ito Michihiro | ||
Hãng phim | Toei Animation | ||
| |||
Kênh gốc | Fuji TV, Kansai TV | ||
Phát sóng | 31 tháng 1 năm 2002 – 28 tháng 3 năm 2002 | ||
Thời lượng / tập | 23 phút | ||
Số tập | 13 (danh sách tập) | ||
OVA | |||
Kanon Kazahana | |||
Đạo diễn | Itō Naoyuki | ||
Sản xuất | Matsusaka Kazumitsu | ||
Kịch bản | Nakamura Makoto, Yamaguchi Ryōta | ||
Thiết kế nhân vật | Ōnishi Youichi | ||
Âm nhạc | Kozu Hiroyuki | ||
Hãng phim | Toei Animation | ||
| |||
Phát hành | Tháng 3, 2003 | ||
Thời lượng / tập | 20 phút | ||
Manga | |||
Kanon: Honto no Omoi wa Egao no Mukōgawa ni | |||
Tác giả | Key | ||
Minh họa | Shimotsuki Kinusa | ||
Nhà xuất bản | Fujimi Shobo | ||
Đối tượng | Shōnen | ||
Tạp chí | Dragon Age Pure | ||
Đăng tải | 29 tháng 6 năm 2006 – 20 tháng 10 năm 2007 | ||
Số tập | 2 | ||
Anime truyền hình | |||
Đạo diễn | Ishihara Tatsuya | ||
Sản xuất | Futono Naohiro, Nakamura Shinichi, Hatta Yoko, Nakayama Yoshihisa | ||
Kịch bản | Shimo Fumihiko | ||
Thiết kế nhân vật | Ikeda Kazumi | ||
Âm nhạc | OdiakeS, Orito Shinji, Maeda Jun, Tsuruoka Yota | ||
Hãng phim | Kyoto Animation | ||
Cấp phép | Madman Entertainment ADV Films, Funimation Proware Multimedia International | ||
| |||
Kênh gốc | BS-i | ||
| |||
Phát sóng | 5 tháng 10 năm 2006 – 15 tháng 3 năm 2007 | ||
Thời lượng / tập | 24 phút | ||
Số tập | 24 (danh sách tập) | ||
Tác phẩm liên quan | |||
Cổng thông tin Anime và manga |
Lối chơi của Kanon đi theo một cốt truyện phân nhánh có tính tương tác với nhiều kịch bản và tập trung chủ yếu vào năm nhân vật nữ chính. Tác phẩm sau khi phát hành đã được chuyển thể sang nhiều loại hình truyền thông khác. Hai loạt manga ra mắt thường kỳ trong các tạp chí Dengeki Daioh và Dragon Age Pure. Các hợp tuyển manga, light novel, drama CD và art book cũng được phát hành, cùng nhiều album âm nhạc khác. Toei Animation sản xuất một bộ anime truyền hình dài 13 tập phát sóng 2002 và một tập OVA ra mắt năm 2003. Kyoto Animation thực hiện phiên bản phim làm lại dài 24 tập và phát sóng từ tháng 10 năm 2006 đến 3 năm 2007. Anime này ban đầu được ADV Films cấp phép phân phối tại Bắc Mỹ vào năm 2008, nhưng sau đó bản quyền đã được chuyển nhượng sang cho Funimation sau khi ADV đóng cửa. Sê-ri phim của Kyoto Animation thể hiện mối tương quan giữa cái tên Kanon và dòng nhạc canon khi sử dụng các bản nhạc Kanon in D-dur, hay Canon cung Rê trưởng, của Pachelbel, làm nhạc nền trong một số cảnh của tác phẩm.
Kanon đứng hạng nhì trong danh sách PC game bán chạy nhất toàn Nhật Bản vào thời điểm ra mắt, và nhiều lần nằm trong tốp 50 toàn quốc sau đó. Tác phẩm đã bán thành công hơn 300.000 bản trên nhiều hệ máy. Kanon được đánh giá là siêu phẩm nhờ xây dựng nên một cốt truyện chặt chẽ mang ý nghĩa sâu sắc. Song hành cùng tác phẩm là khái niệm "trò chơi cướp nước mắt" đã phát triển hoàn chỉnh thành thể loại nakigē (泣きゲー, nakigē?), được ví như cuộc cách mạng làm thay đổi hướng đi của toàn bộ ngành công nghiệp bishōjo game. Sự thành công của Kanon là nguồn động lực để các nhân viên của Key tự tin hơn khi thực hiện các tác phẩm tiếp theo, cũng như đã giúp công ty này trở nên nổi tiếng trong thị trường game Nhật Bản đầy biến động lúc bấy giờ. Một số tác giả như Tanaka Romeo và Ryukishi07 đã chịu ảnh hưởng đặc biệt từ Kanon rồi từ đó tạo ra những trò chơi tên tuổi để đời của họ về sau.