Lâu Lan
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lâu Lan (giản thể: 楼兰; phồn thể: 樓蘭; bính âm: Lóulán;[1] tiếng Duy Ngô Nhĩ: كروران, Кроран, chuyển tự Kroran) là một quốc gia cổ, tồn tại từ thế kỷ II TCN ở vùng đông bắc sa mạc La Bố, Tân Cương (nay thuộc Trung Quốc). Lâu Lan quốc nằm trên con đường tơ lụa và lãnh thổ phần lớn bao quanh bởi sa mạc.[2] Lâu Lan được biết đến với cái tên tiếng Nga là Krorayina hay Kroran. Thuật ngữ Lâu Lan là phiên âm tiếng Trung của tên bản địa Krorän và được dùng để chỉ thành phố gần Lop Nur cũng như vương quốc.
Krorän | |
Dầm gỗ chạm khắc từ Lâu Lan, thế kỷ 3-4. Hoa văn chỉ ra ảnh hưởng từ các nền văn minh phương Tây cổ đại. | |
Vị trí | Tân Cương, Trung Quốc |
---|---|
Tọa độ | 40°31′39,48″B 89°50′26,32″Đ |
Loại | Khu dân cư |
Các ghi chú về di chỉ | |
Tình trạng | Đổ nát |
Năm 77 TCN, sứ thần Trung Quốc là Phó Giới Tử (傅介子) giết chết vua Lâu Lan là An Quy (安歸).[3] Vương quốc này sau đó trở thành một nước bù nhìn của nhà Hán và được đổi tên thành Thiện Thiện(鄯善), với vị vua được nhà Hán dựng lên là Úy Đồ Kỳ (尉屠耆).[4] Vị vua mới được lập đề nghị nhà Hán cử quân đóng tại Y Tuần (伊循), do lo sợ sự trả thù từ phía các con của vị vua bị ám sát. Quân đội nhà Hán vì thế đã chiếm đóng khu vực này.[5] Vương quốc liên tục nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc từ đầu triều đại nhà Hán trở đi cho đến khi bị bỏ hoang nhiều thế kỷ sau đó. Tàn tích của Lâu Lan nằm gần Lop Nur hiện đang bị khô cằn ở Tỉnh tự trị Mông Cổ Bayingolin, Tân Cương và hiện bị sa mạc bao quanh hoàn toàn. [6]