Lockheed F-104 Starfighter
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiếc Lockheed F-104 Starfighter là một kiểu máy bay tiêm kích đánh chặn siêu thanh một động cơ có tính năng bay khá cao, đã phục vụ cho Không quân Hoa Kỳ từ năm 1958 đến năm 1967. Nó tiếp tục phục vụ trong Không lực Vệ binh Quốc gia cho đến khi được loại bỏ vào năm 1975. Sau đó, cơ quan NASA (Hàng không và Không gian Hoa Kỳ) tiếp tục bay một đội máy bay nhỏ. NASA đã sử dụng những chiếc F-104 bay hỗ trợ cho những kế hoạch X-15 và XB-70 Valkyrie, và nó tiếp tục bay hỗ trợ những chương trình không gian cho đến khi chúng được nghỉ hưu vào năm 1995 và được thay thế bằng những chiếc F/A-18 Hornet. Chiếc Starfighter là máy bay đầu tiên đã giữ đồng thời kỷ lục thế giới chính thức về vận tốc, cao độ và tốc độ lên cao. Nhiều phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi được chế tạo, phiên bản có số lượng nhiều nhất là TF-104G.
F-104 Starfighter | |
---|---|
Nguyên mẫu XF-104 Starfighter | |
Kiểu | Máy bay tiêm kích đánh chặn, Máy bay tiêm kích-ném bom |
Quốc gia chế tạo | Hoa Kỳ |
Hãng sản xuất | Lockheed |
Chuyến bay đầu tiên | 17 tháng 2 năm 1956 (YF-104A) |
Bắt đầu được trang bị vào lúc |
20 tháng 2 năm 1958 |
Ngừng hoạt động | 31 tháng 10 năm 2004 (Ý) |
Tình trạng | Nghỉ hưu; được sử dụng với các nhà khai thác dân sự warbird |
Trang bị cho | Không quân Hoa Kỳ Không quân Đức Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản Không quân Thổ Nhĩ Kỳ |
Số lượng sản xuất | 2,578 |
Giá thành | 1,42 triệu USD (F-104G, thời giá 1960)[1] |
Phát triển từ | Lockheed XF-104 Starfighter |
Biến thể | Lockheed NF-104A Canadair CF-104 Aeritalia F-104S |
Phát triển thành | Lockheed CL-1200/X-27 Lockheed CL-288 |
Chiếc F-104C đã được Không quân Hoa Kỳ sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam, và chiếc F-104A cũng được bố trí trong các cuộc Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan. Những chiếc F-104 của Không quân Trung Hoa Dân Quốc cũng từng đối địch cùng những chiếc MiG-19 của Không quân Quân giải phóng Trung Quốc bên trên bầu trời đảo Kim Môn.
Tỷ lệ tai nạn ở mức tệ hại của chiếc F-104 Starfighter, đặc biệt là khi phục vụ cùng Không quân Đức, và vụ hối lộ Lockheed đầy tai tiếng xung quanh hợp đồng mua bán đã gây ra sự tranh cãi chính trị đáng kể tại Châu Âu và Nhật Bản. Một nghiên cứu của Không quân Hoa Kỳ trên những chiếc máy bay tiêm kích đương thời khác cho thấy rằng chiếc F-100 Super Sabre có tỉ lệ tai nạn còn tệ hơn nhiều so với chiếc F-104.[2] Do tỷ lệ tai nạn quá cao, vai trò phục vụ của F-104 trong Không quân Mỹ bắt đầu giảm dần từ năm 1965, và chấm dứt vào năm 1969. F-104 trở thành chiến đấu cơ sản xuất hàng loạt bị loại biên chế nhanh nhất lịch sử Không quân Mỹ, vỏn vẹn 11 năm (1958-1969).
Phiên bản F-104G được bán khá nhiều cho không lực các nước trong khối NATO, nơi mà phiên bản tiêm kích-ném bom tiếp tục phục vụ tại hầu hết các nước cho đến cuối những năm 1980. Dù tỷ lệ tai nạn cao nhưng khá nhiều nước NATO đã mua nó, và đa phần các thương vụ mua F-104 của các quốc gia này có liên quan đến tham nhũng. Vụ việc được phát giác từ năm 1975, khi Thượng viện Mỹ điều tra ra việc Lockheed đã hối lộ các quan chức một số quốc gia để thúc đẩy các hợp đồng mua F-104.
Lockheed đã phát triển phiên bản cuối cùng và là phiên bản Starfighter tiên tiến nhất, kiểu F-104S, để cho Không quân Italy (Aeronautica Militare Italiana) sử dụng, vốn được cải biến để mang được tên lửa AIM-7 Sparrow. Không quân Italy là bên sử dụng những chiếc Starfighter cuối cùng, và chúng được cho nghỉ hưu vào năm 2004. Nhiều nước sử dụng F-104 sau đó đã thay thế chúng bằng kiểu F-16 hay Panavia Tornado. Kế hoạch về một phiên bản cải tiến đáng kể chiếc F-104 được đặt tên là CL-1200 Lancer không được tiến triển và bị hủy bỏ ở giai đoạn chế tạo mô hình mẫu. Một nhóm thao diễn hàng không dân sự đặt căn cứ tại Florida đã sử dụng ba chiếc Starfighter còn bay được cuối cùng.[3]