Mauser C96
From Wikipedia, the free encyclopedia
Mauser C96 (Construktion 96) là một loại súng ngắn bán tự động được sản xuất bởi nhà máy vũ khí Mauser từ năm 1896 đến năm 1937.[5] Những phiên bản không giấy phép cũng được sản xuất ở Tây Ban Nha và Trung Quốc trong nửa đầu thế kỉ thế kỷ 20.[5][6]
Mauser C96 | |
---|---|
Mauser C96 "Red 9" sử dụng đạn 9mm | |
Loại |
|
Nơi chế tạo | Đế quốc Đức |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1896–1961 |
Sử dụng bởi | Xem Các quốc gia sử dụng |
Trận |
|
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Anh em Feederle (Fidel,Friedrich và Joseph) Peter Paul von Mauser |
Năm thiết kế | 1895 |
Nhà sản xuất |
|
Giai đoạn sản xuất | 1896–1937 (Đức) |
Số lượng chế tạo | Trên 1.100.000 khẩu |
Các biến thể |
|
Thông số | |
Khối lượng | 1,13 kg (2 lb 8 oz) |
Chiều dài |
|
Độ dài nòng |
|
Đạn |
|
Cơ cấu hoạt động | Nạp đạn nhờ lực giật |
Tốc độ bắn | 900-1000 viên/phút (M712 Schnellfeuer)[3] |
Sơ tốc đầu nòng | 425 m/s (1.394 ft/s) 7.63x25mm 350 m/s (1.148 ft/s) 9x19mm |
Tầm bắn hiệu quả | 150–200 m (160–220 yd)[4] |
Chế độ nạp |
|
Ngắm bắn | Điểm ruồi chữ V |
Điểm nổi bật chính của C96 là hộp tiếp đạn được tích hợp phía trước cò súng, nòng súng dài, tay cầm làm bằng gỗ có hình dạng như cán chổi. Báng súng cũng được làm bằng gỗ, có thể tách rời. C96 được người Trung Quốc gọi là "pháo hộp" (tiếng Trung: 盒子炮; bính âm: hézipào) vì hình dạng chữ nhật của hộp tiếp đạn và khẩu súng có thể cất trong các hộp đựng làm bằng gỗ như báng súng tách rời của nó.[5]
Súng có cơ chế nạp đạn nhờ lực giật. Điều này cho phép Mauser C96 bắn với tốc độ cực kì nhanh, thậm chí là bắn liên thanh. Do là một khẩu súng ngắn có cỡ đạn và chiều dài nòng khá ngắn nên độ giật của Mauser C96 là không đáng kể kể cả ở chế độ bắn liên thanh. Mauser C96 sử dụng rất nhiều loại đạn, nhiều nhất là đạn 7,63x25mm Mauser và 9x19 Parabellum. Ngoài ra còn rất nhiều các cỡ đạn khác nhau được sử dụng ở Tây Ban Nha và Trung Quốc.[7]
Mauser đã sản xuất khoảng một triệu khẩu C96.[8] Số lượng khẩu súng được sản xuất ở Tây Ban Nha và Trung Quốc được ước tính là lớn, nhưng vẫn còn là một ẩn số do hồ sơ lưu trữ về việc sản xuất không còn nguyên vẹn và đầy đủ.[5]