Napoléon-Jérôme Bonaparte
From Wikipedia, the free encyclopedia
Thân vương Napoléon Joseph Charles Paul Bonaparte[2] (9 tháng 9 năm 1822 – 17 tháng 3 năm 1891), thường được gọi là Napoléon-Jérôme Bonaparte hoặc Jérôme Bonaparte, là con trai thứ hai của Jérôme của Westphalia, và gọi Hoàng đế Napoléon I là bác, vì vị hoàng đế này là anh trai ruột của cha ông. Mẹ của ông là Vương nữ Katharina của Württemberg. Sau cái chết của người cháu họ Louis-Napoléon, Hoàng tử Hoàng gia, con trai của Napoleon III vào năm 1879, ông tuyên bố nắm quyền đứng đầu Vương tộc Bonaparte cho đến khi qua đời vào năm 1891. Tuy nhiên, là một người theo chủ nghĩa tự do thẳng thắn,[3][4] ông không được chuyển giao làm người thừa kế theo di chúc cuối cùng của người cháu họ, thay vào đó chọn con trai lớn của ông là Victor Bonaparte, người được hầu hết những người theo chủ nghĩa Bonaparte ưa chuộng.[5] Từ những năm 1880, ông là một trong những người ủng hộ mạnh mẽ Tướng Georges Boulanger, cùng với các lực lượng quân chủ khác.[6]
Napoléon-Jérôme Bonaparte | |
---|---|
Thân vương xứ Montfort | |
Chân dung của Flandrin, 1860 (Musée d'Orsay) | |
Gia chủ Vương tộc Bonaparte (tranh chấp) | |
Tại vị | 1 tháng 6 năm 1879 – 17 tháng 3 năm 1891 |
Tiền nhiệm | Napoléon Eugène, Hoàng tử hoàng gia |
Kế nhiệm | Louis, Thân vương Napoléon[1] |
Thông tin chung | |
Sinh | (1822-09-09)9 tháng 9 năm 1822 Trieste, Đế quốc Áo |
Mất | 17 tháng 3 năm 1891(1891-03-17) (68 tuổi) Roma, Vương quốc Ý |
An táng | Vương cung thánh đường Superga, Torino |
Phối ngẫu | |
Hậu duệ | Victor, Thân vương Napoléon Thân vương Louis Maria Letizia, Công tước phu nhân xứ Aosta |
Hoàng tộc | Bonaparte |
Thân phụ | Jérôme của Westphalia |
Thân mẫu | Katharina của Württemberg |
Ngoài tước hiệu Thân vương Napoléon, do người anh họ Hoàng đế Napoléon III phong cho ông vào năm 1852,[7] ông còn là Thân vương thứ 2 xứ Montfort, Bá tước thứ nhất xứ Meudon và Bá tước xứ Moncalieri, sau cuộc hôn nhân với Maria Clotilde xứ Savoy, con gái của Vittorio Emanuele II của Ý vào năm 1859. Biệt danh phổ biến của ông, Plon-Plon, xuất phát từ việc ông gặp khó khăn trong việc phát âm tên của chính mình khi còn là một đứa trẻ, mặc dù các nhà sử học nổi tiếng khác và các bức thư đương thời của cháu trai ông, Đại tá Jérôme Bonaparte, cho rằng đó là vì ông đã chạy trốn một cách hèn nhát trong trận chiến khi bom rơi. Một biệt danh khác, "Craint-Plomb" ("Sợ chì") được quân đội đặt cho ông do ông vắng mặt trong Trận Solferino.