Ngô Khánh Thụy
From Wikipedia, the free encyclopedia
Ngô Khánh Thụy (giản thể: 吴庆瑞; phồn thể: 吳慶瑞, Goh Keng Swee) (6 tháng 10 năm 1918 – 14 tháng 5 năm 2010) đảm nhiệm chức vụ Phó thủ tướng Singapore từ năm 1973 đến năm 1984, và là một nghị viên Quốc hội trong hơn 20 năm. Ông sinh tại Malacca trong một gia đình Peranakan, đến Singapore khi được hai tuổi. Ông bắt đầu quan tâm đến chính trị trong thời gian học tập tại Luân Đôn khi gặp các sinh viên đồng chí hướng mưu cầu độc lập cho Malaya thuộc Anh. Từ năm 1945 trở đi, ông làm việc cho Cục Phúc lợi Xã hội, rồi được thăng làm giám đốc. Năm 1958, ông chuyển sang làm việc toàn thời gian cho Đảng Hành động Nhân dân, trở thành một thành viên trọng yếu và sau đó làm phó chủ tịch của ban chấp hành trung ương đảng. Năm sau, ông đắc cử nghị viên trong tổng tuyển cử Hội nghị lập pháp, giữ chức Bộ trưởng Tài chính trong chính phủ của Lý Quang Diệu. Sau khi Singapore độc lập vào năm 1965, Ngô Khánh Thụy trở thành Bộ trưởng Nội an và Quốc phòng. Sau đó, ông kinh qua các chức vụ Bộ trưởng Tài chính, Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Giáo dục.
Ngô Khánh Thụy | |
---|---|
Chức vụ | |
Phó Thủ tướng Singapore | |
Nhiệm kỳ | 1 tháng 3 năm 1973 – 3 tháng 12 năm 1984 11 năm, 277 ngày |
Tiền nhiệm | Đỗ Tiến Tài |
Kế nhiệm | S. Rajaratnam |
Thủ tướng | Lý Quang Diệu |
Bộ trưởng Giáo dục | |
Nhiệm kỳ | 12 tháng 2 năm 1979 – 31 tháng 5 năm 1980 1 năm, 109 ngày, 1 tháng 6 năm 1981 – 3 tháng 12 năm 1984 3 năm, 185 ngày – |
Bộ trưởng Quốc phòng | |
Nhiệm kỳ | 11 tháng 8 năm 1970 – 11 tháng 2 năm 1979 8 năm, 184 ngày |
Bộ trưởng Tài chính | |
Nhiệm kỳ | 17 tháng 8 năm 1967 – 10 tháng 8 năm 1970 2 năm, 358 ngày 5 tháng 6 năm 1959 – 8 tháng 8 năm 1965 6 năm, 64 ngày – |
Bộ trưởng Nội an và Quốc phòng | |
Nhiệm kỳ | 9 tháng 8 năm 1965 – 16 tháng 8 năm 1967 2 năm, 7 ngày |
Thông tin chung | |
Sinh | 6 tháng 10 năm 1918 Malacca, Các khu định cư Eo biển |
Mất | 14 tháng 5 năm 2010(2010-05-14) (91 tuổi) Singapore |
Tôn giáo | Giám Lý[1] |
Đảng chính trị | Đảng Hành động Nhân dân |
Vợ | Alice Woon (1942–86), Phan Thụy Lương/Phua Swee Liang (từ 1991)[2] |
Con cái | Ngô Kiến Chí/Goh Kian Chee[2] |
Trường lớp | Anglo-Chinese School (SC), Raffles College (Dip. A.), LSE (BSc (Econ.), 1951; PhD, 1954) |
Binh nghiệp | |
Năm tại ngũ | 1939?–42 |
Cấp bậc | Hạ sĩ |
Đơn vị | Quân đoàn Tình nguyện Singapore |
Sau khi rời khỏi chính trường, Ngô Khánh Thụy tiếp tục tích cực trong sinh hoạt cộng đồng, đảm nhiệm các chức vụ như Phó Chủ tịch của Công ty Đầu tư Chính phủ Singapore; chủ tịch của ban quản trị Viện Triết học Đông Á; Cố vấn kinh tế cho Quốc vụ viện Trung Quốc về phát triển duyên hải và Cố vấn du lịch; Phó chủ tịch của Cục quản lý tiền tệ Singapore; Cố vấn của Ngân hàng United Overseas.
Năm 1972, Ngô Khánh Thụy được Chính phủ Philippines trao Giải thưởng Ramon Magsaysay, và Huân chương Sikatuna. Sau khi rút khỏi chính trường, vào năm 1985 Ngô Khánh Thụy được nhận Huân chương Temasek hạng nhất, huân chương dân sự cao nhất của Singapore. Ngô Khánh Thụy được chẩn đoán mắc ung thư bàng quang vào tháng 9 năm 1983, trải qua nhiều lần đột quỵ vào cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, và nằm liệt giường trong những năm cuối đời.