Nhà Thanh
triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc / From Wikipedia, the free encyclopedia
Nhà Thanh hay Trung Hoa Đại Thanh quốc, Đại Thanh Đế Quốc,[lower-alpha 3] còn được gọi là Mãn Thanh (chữ Hán: 满清, tiếng Mông Cổ: Манж Чин Улс),[lower-alpha 4] là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc.
Đại Thanh
|
|||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||||
Lãnh thổ do nhà Thanh kiểm soát vào năm 1890 được thể hiện bằng màu xanh lá cây đậm. | |||||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||||
Thủ đô | Thẩm Dương (1636–1644)[lower-alpha 1] Bắc Kinh (1644–1912)[lower-alpha 2] | ||||||||||||||
Thành phố lớn nhất | Bắc Kinh | ||||||||||||||
Ngôn ngữ chính thức | Quan thoại, Tiếng Mãn, Tiếng Mông Cổ, Tiếng Tạng, Tiếng Sát Hợp Đài,[1] và Phương ngữ Hán ngữ Tiếng Latinh (dùng trong thương mại) | ||||||||||||||
Tôn giáo chính | Phật giáo, Tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, Nho giáo, Đạo giáo, Hồi giáo, Shaman giáo, Kitô giáo, các tôn giáo khác | ||||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||||
Chính phủ | Quân chủ chuyên chế | ||||||||||||||
Danh sách hoàng đế Nhà Thanh | |||||||||||||||
• 1636–1643 | Hoàng Thái Cực (thành lập) | ||||||||||||||
• 1644–1661 | Thuận Trị (đầu tiên ở Bắc Kinh) | ||||||||||||||
• 1661–1722 | Khang Hi (lâu nhất) | ||||||||||||||
• 1723–1735 | Ung Chính | ||||||||||||||
• 1736–1796 | Càn Long | ||||||||||||||
• 1796–1820 | Gia Khánh | ||||||||||||||
• 1821–1850 | Đạo Quang | ||||||||||||||
• 1851–1861 | Hàm Phong | ||||||||||||||
• 1862–1875 | Đồng Trị | ||||||||||||||
• 1875–1908 | Quang Tự | ||||||||||||||
• 1908–1912 | Phổ Nghi (cuối cùng) | ||||||||||||||
Nhiếp chính | |||||||||||||||
• 1643–1650 | Đa Nhĩ Cổn | ||||||||||||||
• 1908–1911 | Tái Phong | ||||||||||||||
Tổng lý đại thần | |||||||||||||||
• 1911 | Dịch Khuông | ||||||||||||||
• 1911–1912 | Viên Thế Khải | ||||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||||
Thời kỳ | Châu Á | ||||||||||||||
• Dưới thời Hậu Kim | 1616–1636 | ||||||||||||||
• Triều đại thành lập | 1636 | ||||||||||||||
1644 | |||||||||||||||
• Chiến tranh Chuẩn Cát Nhĩ | 1687–1759 | ||||||||||||||
1839–1842 | |||||||||||||||
1856–1860 | |||||||||||||||
1894–1895 | |||||||||||||||
10 tháng 10 năm 1911–12 tháng 2 năm 1912 | |||||||||||||||
12 tháng 2 năm 1912 | |||||||||||||||
Địa lý | |||||||||||||||
Diện tích | |||||||||||||||
• 1700[2] | 8.800.000 km2 (3.397.699 mi2) | ||||||||||||||
• 1790[2] | 14.700.000 km2 (5.675.702 mi2) | ||||||||||||||
• 1860[2] | 13.400.000 km2 (5.173.769 mi2) | ||||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||||
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 1820[3] | ||||||||||||||
• Tổng số | 228.6 triệu USD (tỷ giá 1990) (hạng 1) | ||||||||||||||
• Bình quân đầu người | 600 USD (tỷ giá 1990) | ||||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Văn Lượng | ||||||||||||||
| |||||||||||||||
Nhà Thanh | |||||||||||||||||||||||||||||
Tên tiếng Trung | |||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tiếng Trung | 清朝 | ||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||
Đại Thanh | |||||||||||||||||||||||||||||
Tiếng Trung | 大清 | ||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||
Tên tiếng Mông Cổ | |||||||||||||||||||||||||||||
Cyrillic tiếng Mông Cổ | Дайчин Улс | ||||||||||||||||||||||||||||
Chữ Mông Cổ | ᠳᠠᠢᠢᠴᠢᠩ ᠤᠯᠤᠰ | ||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||
Tên tiếng Mãn | |||||||||||||||||||||||||||||
Bảng chữ cái tiếng Mãn | ᡩᠠᡳ᠌ᠴᡳᠩ ᡤᡠᡵᡠᠨ | ||||||||||||||||||||||||||||
Abkai | Daiqing gurun | ||||||||||||||||||||||||||||
Möllendorff | Daicing gurun | ||||||||||||||||||||||||||||
Nguồn gốc của người Mãn Châu là người Nữ Chân, hoàng tộc Ái Tân Giác La là một bộ tộc của Kiến Châu Nữ Chân, thuộc sự quản lý của Kiến Châu vệ của nhà Minh. Kiến Châu vệ là một vệ sở được nhà Minh thiết lập tại Đông Bắc Trung Quốc, thuộc đơn vị hành chính biên phòng triều Minh, từng thuộc sự quản lý của Nô Nhi Càn Đô ty, mà Ái Tân Giác La thị nhiều đời là Đô chỉ huy sứ của Kiến Châu tả vệ. Năm 1616, một người Nữ Chân là Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã dựng quốc xưng Hãn, thành lập nhà nước "Đại Kim" (chữ Hán: 大金; bính âm: Dà Jīn) ở vùng Đông Bắc Trung Quốc – sử sách gọi là Hậu Kim để phân biệt với nhà Kim cũng của người Nữ Chân từng tồn tại vào thế kỷ 12-13; đóng đô ở Hách Đồ A Lạp – còn gọi là "Hưng Kinh". Đến năm 1636, người thừa kế Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Hoàng Thái Cực xưng Đế ở Thịnh Kinh, đổi quốc hiệu thành Đại Thanh (chữ Hán: 大清; bính âm: Dà Qīng), lúc ấy, lãnh thổ chỉ dừng lại ở vùng Đông Bắc Trung Quốc và khu vực Mạc Nam, nhưng cũng đã gây đe dọa lớn với nhà Minh, vốn đã rút lui về phía nam Vạn Lý Trường Thành. Năm 1644, Lý Tự Thành xuất quân đánh chiếm Bắc Kinh, nhà Minh diệt vong. Cùng năm đó, Ngô Tam Quế vốn là tướng tàn dư của nhà Minh, vì để đối kháng Lý Tự Thành mà đã đầu hàng nhà Thanh. Quân Thanh dễ dàng tiến qua Sơn Hải quan, đánh bại Lý Tự Thành, chính thức dời đô về Bắc Kinh, cũng mở động một cuộc nam hạ quy mô lớn. Trong vòng thời gian mấy chục năm sau, nhà Thanh lần lượt tiêu diệt thế lực đối địch còn sót lại như tàn dư nhà Minh ở Hoa Bắc, quân Đại Thuận của Lý Tự Thành, Đại Tây của Trương Hiến Trung, Nam Minh và nhà nước Minh Trịnh của Trịnh Thành Công; thống nhất toàn bộ Trung Quốc. Nhà Thanh chinh phục và trở thành triều đình cai trị lãnh thổ của: Trung Quốc bản thổ (1644-1662), đảo Đài Loan (1683), Ngoại Mông (1691), Tây Tạng (1751), Tân Cương (1759); hoàn thành cuộc chinh phục của người Mãn Châu. Vào giai đoạn cực thịnh cuối thế kỷ 18, nhà Thanh kiểm soát lãnh thổ rộng tới 13 triệu km2 (lãnh thổ Trung Quốc ngày nay rộng 9,6 triệu km2), là thời kỳ mà lãnh thổ Trung Quốc đạt mức rộng lớn nhất trong lịch sử. Trải qua ba đời Hoàng đế Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, quốc lực của nhà Thanh cùng với kinh tế, văn hóa đều được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, thống trị lãnh thổ rộng lớn và các phiên thuộc, sử gọi "Khang - Càn thịnh thế", là thời kỳ phát triển đỉnh cao của nhà Thanh, là một trong những thời kỳ huy hoàng nhất của các vương triều phong kiến trong lịch sử Trung Quốc.[7][8][lower-alpha 5]
Trong thời gian trị vì, nhà Thanh đã củng cố quyền quản lý hòa bình của họ đối với Trung Quốc, hoà nhập và hòa hợp văn hoá của các dân tộc thiểu số với văn hoá Trung Quốc, và xã hội Trung Quốc đã đạt tới tầm ảnh hưởng cao nhất của Đế quốc Trung Hoa. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự của Thanh đã suy giảm trong thế kỷ 19 và phải đối mặt với sức ép từ bên ngoài, nhiều cuộc nổi loạn bên trong và những thất bại trong chiến tranh, khiến nhà Thanh tàn tạ từ sau nửa cuối thế kỷ 19. Việc lật đổ triều Mãn Thanh sau cuộc Cách mạng Tân Hợi khi hoàng hậu nhiếp chính khi ấy là Hiếu Định Cảnh hoàng hậu, đối mặt với phản kháng của phong trào cách mạng Tân Hợi nên bà buộc phải thoái vị nhân danh vị hoàng đế Mãn Thanh cuối cùng là Phổ Nghi ngày 12 tháng 2 năm 1912. Tàn dư của chế độ Mãn Thanh cũng đã bị tiêu diệt tại vùng Tân Cương và Tây Tạng của Trung Quốc cũng vào năm 1912.
Tại đất tổ là vùng Mãn Châu, tàn dư nhà Thanh của cựu hoàng đế Phổ Nghi thiết lập Mãn Châu Quốc nhưng thực chất chỉ là chính phủ bù nhìn của Nhật Bản, tồn tại đến năm 1945 thì người Nga (Liên Xô) tiêu diệt quân Nhật ở vùng Mãn Châu tại Thế chiến 2, Mãn Châu Quốc cũng bị diệt vong và Mãn Châu quay trở về Trung Quốc.