Phổ (quốc gia)
quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg / From Wikipedia, the free encyclopedia
Phổ (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: Borussia, Prutenia; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: Prūsija; tiếng Ba Lan: Prusy; tiếng Phổ cổ: Prūsa) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg, một lãnh thổ trong suốt nhiều thế kỉ đã có ảnh hưởng lớn lên lịch sử nước Đức và châu Âu, đóng vai trò quan trọng trong lịch sử thế giới vào thời kỳ cận đại.[1] Kinh đô cuối cùng của vương quốc Phổ là Berlin.
Phổ
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
1525–1947 | |
Lãnh thổ Phổ (màu xanh lam) ở thời kì đỉnh cao, là quốc gia đứng đầu Đế chế Đức | |
Tổng quan | |
Thủ đô | Königsberg, sau là Berlin |
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Đức (chính thức) |
Tôn giáo chính | Tin Lành, Giáo hội Công giáo Rôma |
Chính trị | |
Chính phủ | Quân chủ phong kiến (1525–1701) Quân chủ chuyên chế (1701–1848) Liên bang nghị viện quân chủ bán lập hiến (1848–1918) Liên bang bán tổng thống cộng hòa (1918–1930 Liên bang tổng thống chế độc tài toàn trị cộng hòa (1930–1933) Quốc xã đơn đảng độc tài toàn trị (1933–1945) |
Công tước1 | |
• 1525–1568 | Albert I (đầu tiên) |
• 1688–1701 | Frederick III (cuối cùng) |
Hoàng đế1 | |
• 1701–1713 | Frederick I (đầu tiên) |
• 1888–1918 | Wilhelm II (cuối cùng) |
Thủ tướng1, 2 | |
• 1918–1920 | Paul Hirsch (đầu tiên) |
• 1933–1945 | Hermann Göring (cuối cùng) |
Lịch sử | |
Thời kỳ | Từ thời Cận đại đến Đương đại |
10 tháng 4 1525 | |
27 tháng 8 năm 1618 | |
18 tháng 1 năm 1701 | |
• Lãnh thổ Tự do Phổ | 9 tháng 11 năm 1918 |
• Giải thể (thực tế) | 30 tháng 1 năm 1934 |
25 tháng 2 1947 | |
Địa lý | |
Diện tích | |
• 1939 | 297.007 km2 (114.675 mi2) |
Dân số | |
• 1939 | 41915040 |
Hiện nay là một phần của | Đức, Ba Lan, Nga, Lithuania, Đan Mạch, Bỉ, Cộng hòa Séc, Hà Lan, Thụy Sĩ |
1 Chỉ nêu những nhà lãnh đạo đầu tiên và cuối cùng của mỗi thời kỳ. 2 Chức vụ Thủ tướng chính phủ (Ministerpräsident) được đặt ra vào năm 1792 khi Phổ là một Vương quốc; các Thủ tướng ở đây là người đứng đầu nước cộng hòa Phổ. |
Nước Phổ phát triển rực rỡ nhất trong thế kỉ 18 và thế kỷ 19. Trong suốt thế kỉ thứ 18, dưới triều đại của ông vua nhà binh Friedrich II Đại Đế (1740 – 1786) - được xem là vị thống soái kiệt xuất nhất trong thời đại của ông,[2][3] Vương quốc Phổ vươn lên đứng trong hàng ngũ các cường quốc hàng đầu châu Âu, là một cường quốc của thế giới. Trong suốt những năm tháng trị quốc, Friedrich II rất năng nổ.[4] Nhờ tài năng lãnh đạo xuất sắc và những chiến thuật siêu việt, ông đã phát binh đánh bại được tất cả các quốc gia trên toàn lục địa châu Âu.[5] Cuộc chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763) đã chứng tỏ chủ nghĩa anh hùng và sự huy hoàng của nước Phổ, cùng với thiên tài quân sự của ông vua nhà binh Friedrich II Đại Đế, qua việc ông chống lại những kẻ thù hùng mạnh như Đế quốc Nga, Đế quốc Áo và Pháp, mà giữ vững Vương quốc Phổ.[6][7][8][9] Sức mạnh của nước Phổ được ông gia tăng rất lớn, và chiếm được đất từ nước Ba Lan và xứ Franconia.[10]
Cuối triều Friedrich II, nước Phổ đã thiết lập "Liên minh các Vương hầu" với các tiểu quốc của người Đức.[11] Nếu triều đại của ông gắn liền với triết học Khai sáng thì nước Phổ trong những năm tháng sau này gắn liền với những cuộc chinh phạt tàn khốc của Hoàng đế Pháp là Napoléon Bonaparte và những chính sách "Sắt và Máu" của Thủ tướng Otto von Bismarck.[12] Trong suốt thế kỉ 19, Quân đội Phổ đánh tan tác quân Pháp,[13] Triều đình Phổ đánh bại được phong trào tự do, xây dựng một Nhà nước chuyên chế mới,[14] và Thủ tướng Otto von Bismarck theo đuổi mục tiêu thống nhất nước Đức nhưng không bao gồm Đế quốc Áo, gọi là Giải pháp nước Đức nhỏ. Vương quốc Phổ thống trị miền bắc nước Đức về mặt chính trị, kinh tế, và dân số, và là trụ cột của Liên minh Bắc Đức thành lập vào năm 1867, trở thành Đế chế Đức (Deutsches Reich) vào năm 1871. Trong thế kỷ XIX, quá trình công nghiệp hóa đất nước cũng diễn ra nhanh chóng.[14]
Với sự kết thúc của triều đại Hohenzollern ở Đức theo sau Thế chiến thứ nhất, Phổ trở thành một phần của Cộng hòa Weimar vào năm 1919 với tư cách một bang tự do. Nước Phổ trên thực tế bị chính quyền Quốc xã hủy bỏ vào năm 1934 và chính thức bị phe Đồng Minh khai tử sau Thế chiến thứ hai năm 1947.
Kể từ đó, từ "Phổ" chỉ còn được sử dụng giới hạn trong các lĩnh vực lịch sử, địa lý, hoặc văn hóa. Thậm chí ngày nay, có một kiểu phong cách được gọi là "các giá trị Phổ", ví như: tổ chức hoàn hảo, tinh thần hy sinh, tôn trọng luật pháp, tuân phục nhà nước, tinh thần thượng võ, cũng như đáng tin cậy, khoan dung tôn giáo, điều độ, thực tế, tiết kiệm, đúng hẹn, khiêm tốn, và cần mẫn. Rất nhiều người Phổ tin rằng những giá trị đó là nguyên nhân làm đất nước họ trở nên lớn mạnh. Vua Friedrich Wilhelm I đã xây dựng một lực lượng quân đội Phổ kỷ luật xuất sắc, mang lại chiến thắng cho người con huy hoàng của ông là Friedrich II Đại Đế sau này.[15] Với tinh thần kỷ luật khắt khe, nước Phổ hùng mạnh đã trở thành một "Vương quốc Sắt".[1]
Danh xưng "Phổ" trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Trong tiếng Anh, nước này được gọi là "Prussia". Người Trung Quốc bỏ chữ "a" ở cuối và phiên âm "P-ru-ssi" thành 普魯西 (pinyin: Pǔ lǔ xī, Hán Việt: "Phổ Lỗ Tây") hoặc 普魯士 (pinyin: Pǔ lǔ shì, Hán Việt: "Phổ Lỗ Sĩ"), gọi tắt cho cả hai là "Phổ".
Quốc hiệu nước Phổ bắt nguồn từ tên gọi của người Prūsai cổ, một tộc quần người Balt có liên quan đến người Litva và người Latvia; người Prūsai cổ bị các hiệp sĩ Teuton, (tiếng Đức: Deutscher Orden, tiếng Anh: Teutonic Knights), chinh phục rồi dần bị đồng hóa.
Lá cờ của Phổ mang màu trắng và đen, bắt nguồn từ màu áo choàng trắng thêu thánh giá đen của các Hiệp sĩ Teuton (Đức). Lá cờ đen-trắng-đỏ của Liên minh miền bắc nước Đức là tổ hợp của lá cờ này với lá cờ màu trắng-đỏ của đồng minh Hanse, gồm các thành phố tự do Bremen, Hamburg và Lübeck, tạo thành quốc kỳ Liên bang Bắc Đức, sau trở thành cờ của Đế chế Đức vào năm 1871.
Kể từ sau Cải cách Tôn giáo, khẩu hiệu của Phổ là Suum cuique (tiếng Anh: to each, his own, tiếng Đức: Jedem das Seine). Ngoài ra nó còn là khẩu hiệu trên Huân chương Đại bàng Đen, được đặt ra bởi vua Friedrich I (xem huân chương Thập tự Sắt). Trên huy hiệu của Phổ có vẽ một con đại bàng đen trên nền trắng.
Phổ bắt nguồn từ một lãnh địa nhỏ mà sau này được gọi Đông Phổ, giờ là tỉnh Warmia-Masuria của Ba Lan, lãnh thổ hải ngoại Kaliningrad của Nga và vùng Klaipėda của Litva. Cư dân nguyên thủy của vùng này là người Phổ cổ, sau cải theo đạo Ki-tô và bị Đức hóa. Sau này Phổ được người Đức theo đạo Tin Lành ưa chuộng nên nhiều người di cư đến, cũng như nhiều người Ba Lan và người Litva đến sống ở các khu vực dọc theo biên giới Phổ.
Lãnh thổ Vương quốc Phổ trước khi bị xóa bỏ bao gồm đất Phổ "gốc" (Đông và Tây Phổ), Brandenburg, tỉnh Sachsen (gồm phần lớn bang Sachsen-Anhalt ngày này và một phần bang Thüringen), Pomerania, Rheinland-Pfalz, Nordrhein-Westfalen, Schlesien (ngoại trừ phần Schlesien thuộc Áo), Lausitz, Schleswig-Holstein, Hanover, Hesse-Nassau, và một vài lãnh địa nhỏ nằm tách biệt ở miền nam, như Hohenzollern, đất tổ của Vương tộc Phổ. Tới năm 1914, Phổ có diện tích 354.490 km². Tháng 5 năm 1939, Phổ có diện tích 297.007 km² và dân số 41.915.040 người. Xứ Neuenburg, nay thuộc tổng Neuchâtel ở Thụy Sĩ cũng là một phần của Vương quốc Phổ từ năm 1707 tới 1848.
Đại đa số người Phổ theo đạo Tin Lành. Phần phía nam của vùng Masuria thuộc Đông Phổ có dân cư là người Masur bị Đức hóa và theo Tin Lành. Điều này lý giải phần nào việc các vương quốc Đức theo Công giáo miền nam, đặc biệt là Áo và Bavaria phản kháng lại rất quyết liệt việc Phổ trở thành bá chủ nước Đức.
Một phần đáng kể dân chúng sống ở Rheinland và một số vùng Nordrhein-Westfalen theo Công giáo Rôma. Tương tự vậy, Tây Phổ, Warmia, Schlesien, và tỉnh Posen có đa phần dân chúng theo Công giáo, vì nước Phổ giành được các vùng đó từ các quốc gia Công giáo như Vương quốc Ba Lan và Đế quốc Áo.
Vùng lãnh thổ Đại Ba Lan là đất phát sinh quốc gia Ba Lan trở thành tỉnh Posen của Phổ sau "Cuộc chia cắt Ba Lan". Người Ba Lan chiếm đa số trong tỉnh (62% là người Ba Lan, 38% là người Đức) chống lại sự thống trị của người Đức, tương tự vậy, vùng Thượng Schlesien có một số lớn dân cư là người Ba Lan.
Theo Hiệp ước Versailles năm 1919, nền Cộng hoà thứ hai của Ba Lan giành lại được hai vùng này, cùng với các khu vực thuộc Tây Phổ nhưng có đa số dân là người Đức. Sau Thế chiến thứ hai, Đông Phổ, Schlesien, phần lớn Pomerania và một phần của Brandenburg bị chia cắt về Liên Xô và Ba Lan.
Vào năm 1226 Công tước Konrad I xứ Mazovia mời các Hiệp sĩ Teuton, một dòng tu chiến binh Đức, đại bản doanh đặt tại thành phố Acre ở Vương quốc Jerusalem, chinh phạt các bộ lạc Phổ trên vùng biên giới lãnh thổ của ông. Sau 60 năm chiến tranh với người Phổ, họ đã dựng nên một quốc gia độc lập mà về sau nắm luôn quyền điều khiển Phổ. Sau khi dòng Hiệp sĩ Thanh gươm của Livonia gia nhập dòng Hiệp sĩ Teuton năm 1237, họ kiểm soát luôn vùng Livonia, bây giờ là Estonia, Latvia và tây Litva.
Các hiệp sĩ này chỉ chịu ở dưới quyền Giáo hoàng Rôma và Quốc vương La Mã Đức. Ban đầu, họ liên hệ mật thiết với Hoàng gia Ba Lan, nhưng về sau, mối quan hệ này bị đổ vỡ khi họ đánh chiếm các vùng đất mà Ba Lan tuyên bố sở hữu là Pomerelia và Danzig (Gdańsk), một thành phố với cư dân chủ yếu là người Đức. Dòng tu Hiệp sĩ Teuton cuối cùng bị đánh bại trong trận chiến Grunwald năm 1410 bởi Liên minh Ba Lan và Lietuva, thành lập thông qua Hiệp ước liên minh Krewo (tiếng Ba Lan: unia w Krewie; tiếng Litva: Krėvos sutartis).
Trong cuộc "chiến tranh Mười ba năm" (1454-1466), Liên minh Phổ, bao gồm các thành phố đồng minh Hasen ở Tây Phổ nổi dậy chống lại dòng Hiệp sĩ Teuton và cầu viện vua Ba Lan. Các Hiệp sĩ Teuton buộc phải chấp nhận thần phục vua Kazimierz IV Jagiellonczyk theo Hòa ước Thorn, đồng thời mất đi vùng Tây Phổ cho Ba Lan.
Năm 1525, Đại Trưởng lão Albert Brandenburg-Ansbach, thuộc một chi nhánh của nhà Hohenzollern, cải theo đạo Tin lành dòng Lutheran và nhập các lãnh địa còn lại của dòng tu vào Công quốc Phổ. Đây là khu vực nằm phía đông cửa sông Vistula, về sau được gọi là lãnh thổ Phổ "gốc". Lần đầu tiên, các lãnh địa này rơi vào tay một chi nhánh của nhà Hohenzollern, chủ nhân lãnh địa Brandenburg về phía tây với trung tâm là Berlin và đã nằm dưới sự cai trị của nhà Hohenzollern từ thế kỷ 15. Hơn thế nữa, khi từ bỏ dòng tu, Albert có thể lập gia đình và có con.
Phổ và Brandenburg được thống nhất hai thế hệ sau đó. Anna, cháu nội của Albert và là con gái của Công tước Albrecht Friedrich của Phổ, thành hôn với người anh họ là Tuyển hầu Johann Sigismund xứ Brandenburg.
Khi Albrecht Friedrich qua đời năm 1618 mà không có con trai nối nghiệp, Johann Sigismund được trao quyền thừa kế Phổ, cho tới khi đó vẫn chỉ là vùng đất phong thuộc Ba Lan. Kể từ nay, Công quốc Phổ được sáp nhập với lãnh địa Brandenburg. Vùng lãnh địa này được gọi là Brandenburg-Phổ, bao gồm nhiều mảnh lãnh địa nằm rải rác trong Phổ, Brandenburg, cũng như các lãnh địa Cleves và Mark trong vùng Rhineland. Vào năm 1618, vùng đất Đức lâm vào cuộc chiến tranh Ba mươi năm tàn khốc.[16]
Trong suốt cuộc Chiến tranh Ba mươi năm, những lãnh địa rời rạc của nhà Hohenzollern bị nhiều đoàn quân viễn chinh khác nhau giày xéo, đặc biệt là quân của Thụy Điển. Bá tước Georg Wilhelm không có năng lực quân sự, phải chạy trốn khỏi Berlin sang Königsberg, kinh đô truyền thống của Công quốc Phổ vào năm 1637. Người kế vị ông, Friedrich Wilhelm I, tiến hành cải cách quân đội để bảo vệ lãnh thổ. Năm 1641, Friedrich Wilhelm I sang Warszawa triều kiến vua Ba Lan là Władysław IV Vasa để tỏ lòng trung thành của mình, do lãnh địa Phổ của ông vẫn được coi là đất phong của triều đình Ba Lan cho ông. Tuy nhiên về sau, lợi dụng tình trạng đối đầu gay go giữa Ba Lan và Thụy Điển trong các cuộc Chiến tranh Bắc Âu, cũng như mối quan hệ thân thiện của ông với nước Nga trong một loạt các cuộc chiến tranh Nga-Ba Lan, Friedrich Wilhelm đã có thể xoay xở để thoát khỏi nghĩa vụ chư hầu với vua Ba Lan. Ông giành được quyền tự chủ cho Phổ trong Hòa ước Wehlau vào năm 1657. Ông xây dựng một lực lượng quân đội thường trực, với 30.000 quân tinh nhuệ.[17] Đến cả vị anh hùng của Stalin là Nga hoàng Pyotr Đại Đế cũng phải thán phục xứ Phổ của vị Tuyển hầu tước vĩ đại.[18]
Vào năm 1675, ông đánh tan tác quân Thụy Điển trong trận Fehrbellin, qua đó ông trở thành vị "Tuyển hầu tước vĩ đại".[19] Với chiến công hiển hách của ông, dân tộc Đức quay trở lại thời kỳ hùng mạnh.[20] Quân đội Phổ đã giành chiến thắng trong chiến dịch chống Thụy Điển, và chiến thắng tại Fehrbellin trở thành một ký ức cao đẹp của dân tộc Phổ - Brandenburg, về sự phát triển của truyền thống quân sự của họ. Lực lượng quân sự độc lập đã đặt nền tảng cho Vương triều Hohenzollern đưa nước Phổ lên hàng liệt cường, chứ không phải là những liên minh đã đưa xứ Phổ đến tình hình tồi tệ như trong cuộc Chiến tranh Ba mươi năm.[17] "Tuyển hầu tước vĩ đại" cũng cho phép 20.000 tín đồ Kháng Cách Pháp đến tị nạn trên đất Phổ.[21] Ban đầu ông dựa theo hình mẫu của người Hà Lan mà xây dựng quân đội, nhưng từ sau 1685, những người Pháp tị nạn đã truyền bá vào xứ Phổ cách rèn luyện quân sự mới nhất của nước Pháp.[17] Tuy ông bị mất một số đất đai mà ông chinh phạt được, ông vẫn luôn được nhiều người châu Âu nể trọng; và, vào năm 1757, khi vị vua kiên quyết Friedrich II Đại Đế tuyệt vọng vì bị nhiều nước vây hãm, Voltaire đã lấy chuyện này ra để khuyên nhà vua hồi phục và đóng vai trò quan trọng trên chính trường châu Âu. Với tư tưởng sắt đá của mình, ông đã nghe theo Voltaire...[22] Vị Tuyển hầu tước vĩ đại cũng gửi một đạo quân đến giúp Hoàng đế Áo là Leopold I đánh đuổi quân Thổ Ottoman ra khỏi kinh thành Viên.[23]