Phật giáo ở Đông Á
From Wikipedia, the free encyclopedia
Phật giáo Đông Á là một thuật ngữ thường dùng để chỉ đến 2 khái niệm khác nhau. Về địa lý, thuật ngữ này dùng để chỉ tín ngưỡng Phật giáo ở vùng Đông Á, bao gồm ở các quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản, và bán đảo Triều Tiên.[1][2] [3] Về hình thái, thuật ngữ này được mở rộng như một thuật ngữ chung cho các trường phái Phật giáo Đại thừa phát triển trên khắp Đông Á theo nền tảng kinh văn Phật giáo Hán ngữ, mở rộng ra cả Việt Nam ở Đông Nam Á. Theo nghĩa này, Phật giáo Đông Á là cộng đồng Phật giáo lớn nhất về số lượng trong số các truyền thống Phật giáo trên thế giới, chiếm hơn một nửa số Phật tử trên thế giới.[4][5]
Nhìn chung, tất cả các tông phái Phật giáo Đông Á đều bắt nguồn từ các trường phái Phật giáo được Hán hóa, hình thành và phát triển từ giữa thời nhà Hán. Do các cuộc tiếp xúc thương mại với Trung và Nam Á vào Đông Á, dọc theo Con đường tơ lụa, hình thành sự giao lưu văn hóa sôi nổi trong hơn một thiên niên kỷ, bao gồm cả các hoạt động truyền bá tôn giáo, mà theo đó Phật giáo lần đầu tiên được giới thiệu từ Trung Á và Gandhara vào Trung Hoa. Phật giáo được Hán hóa mạnh mẽ vào thời nhà Tống, và do đó chịu ảnh hưởng rất lớn từ của văn hóa và triết học Trung Hoa.[6] [7] Một số tông phái có ảnh hưởng nhất bao gồm Thiền, Tịnh độ, Hoa Nghiêm, Thiên thai và Phật giáo mật truyền.[8] Những trường phái này đã phát triển những cách giải thích mới, độc đáo theo truyền thống Đông Á về các kinh văn Phật giáo và tập trung vào việc nghiên cứu kinh điển Đại thừa. Theo Paul Williams, sự nhấn mạnh này vào việc nghiên cứu kinh điển trái ngược với thái độ của Phật giáo Tây Tạng coi kinh điển là quá khó trừ khi được tiếp cận thông qua nghiên cứu các luận thuyết triết học (shastra).[9]
Các kinh văn Hán ngữ bắt đầu được dịch vào thế kỷ thứ hai và tiếp tục phát triển trong khoảng thời gian 1.000 năm. Những bản in khắc gỗ đầu tiên được hoàn thành vào năm 983. Phiên bản tiêu chuẩn hiện đại là Taishō Tripiṭaka, được sản xuất tại Nhật Bản từ năm 1924 đến 1932.[10]
Bên cạnh việc chia sẻ kinh điển, các hình thức khác nhau của Phật giáo Đông Á cũng đã điều chỉnh các giá trị tu tập truyền thống Đông Á, vốn không nổi bật trong Phật giáo Ấn Độ, chẳng hạn như sự tôn kính tổ tiên của Trung Hoa và quan điểm hiếu thảo của Nho giáo.[11] Tăng sĩ Phật giáo Đông Á nói chung tuân theo giới luật được gọi là Luật Pháp Tạng (Dharmaguptaka Vinaya).[12] Một ngoại lệ là một số tông phái Phật giáo Nhật Bản, nơi các tu sĩ Phật giáo đôi khi được kết hôn mà không tuân theo giới luật truyền thống. Điều này phát triển trong thời Minh Trị Duy tân, khi một chiến dịch chống lại Phật giáo trên toàn quốc được phát động, buộc một số trường phái Phật giáo Nhật Bản phải thay đổi hình thức tu tập của họ.[13]