Sự nghiệp điện ảnh của Steven Spielberg
bài viết danh sách wikimedia / From Wikipedia, the free encyclopedia
Steven Spielberg là một nam đạo diễn, nhà sản xuất điện ảnh kiêm nhà biên kịch người Mỹ gốc Do Thái, người đã bắt đầu đến với điện ảnh ngay từ thời niên thiếu. Ông gây đột phá khi chỉ đạo Hàm cá mập (1975), phỏng theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Peter Benchley. Tác phẩm là một thành công lớn về mặt thương mại khi thu về hơn 470 triệu USD trên toàn thế giới,[1] qua đó trở thành bộ phim ăn khách nhất mọi thời đại[2] (trước khi bị soán ngôi bởi Chiến tranh giữa các vì sao 4: Niềm hi vọng mới)[3] đồng thời còn giúp Spielberg nhận được đề cử giải Oscar đầu tiên cho Phim hay nhất và khai sinh ra khái niệm bom tấn mùa hè.[4][5] Tiếp theo, ông cho ra mắt hai tác phẩm khoa học viễn tưởng được đánh giá cao là Close Encounters of the Third Kind[6][7] cùng với E.T. Sinh vật ngoài hành tinh.[8][9][10] Năm 1981, nhà làm phim hợp tác với người bạn George Lucas để thực hiện phần đầu tiên trong thương hiệu giả tưởng Indiana Jones, Indiana Jones và chiếc rương thánh tích.[11]
Vào đầu thập niên 1980, Steven Spielberg đảm nhiệm khâu sản xuất cho một số bộ phim, trong đó có Poltergeist, Twillight Zone, The Goonies hay các sê-ri hoạt hình The Tiny Toon Adventure, Animaniacs. Năm 1985, ông bắt đầu lấn sang dòng phim nghệ thuật với tác phẩm bi kịch The Color Purple, đã nhận được những lời ngợi khen và gặt hái hai đề cử giải Quả cầu vàng cho Phim chính kịch hay nhất cùng Đạo diễn xuất sắc nhất.[12][13][14][15] 6 năm sau, ông chỉ đạo Hook, tập trung vào nhân vật Peter Pan ở độ tuổi trung niên. Tuy không được giới phê bình đánh giá tích cực nhưng phim vẫn chiếm được cảm tình từ phía khán giả.[16] Năm 1993 được xem là bước tiến lớn trong sự nghiệp của vị đạo diễn khi cho ra đời hai tác phẩm rất thành công là Công viên kỷ Jura - bộ phim có doanh thu cao nhất trong sự nghiệp Spileberg[17] và là tác phẩm thứ ba của ông đứng đầu danh sách phim điện ảnh đắt khách nhất mọi thời đại[18] - cùng Bản danh sách của Schindler, đã giành được giải Oscar cho Phim hay nhất cũng như giải Oscar cho Đạo diễn xuất sắc nhất.[19] Vào năm 1998, Spieberg tiếp tục mang về tượng vàng ở hạng mục này nhờ màn chỉ đạo tác phẩm chiến tranh Giải cứu binh nhì Ryan, mặc dù việc bộ phim để thua giải Phim hay nhất trước đối thủ Shakespeare đang yêu đã làm dấy lên một làn sóng tranh cãi.[20][21][22] Trong thời gian này, ông cùng với đối tác Jeffrey Katzenberg và David Geffen thành lập xưởng phim DreamWorks.
Trong những năm đầu thập niên 2000, nhà làm phim bắt tay với cộng tác viên Tom Hanks để sản xuất miniseries Band of Brothers,[23] đồng thời còn thực hiện các tác phẩm thương mại mang âm hưởng nghệ thuật. Năm 2005, tạp chí Empire xếp Steven Spielberg đứng đầu danh sách các đạo diễn vĩ đại, ngoài ra ông cũng là nhà làm phim có thu nhập cao nhất năm.[24] Ngay sau đó, Spielberg chỉ đạo bộ phim được xem là tranh cãi bật nhất trong sự nghiệp của mình, Munich.[25] Vào khoảng thời gian tiếp theo, ông hợp tác với nhiều nhân vật truyền thông để sản xuất cho phim của họ. Đan xen với công việc sản xuất và chỉ đạo điện ảnh, Steven Spielberg còn là nhà phát triển trò chơi điện tử[26] và đóng vai khách mời/lồng tiếng trong một vài tác phẩm, điển hình như Paul (2011), bộ phim giễu nhại lại những tác phẩm khoa học viễn tưởng của ông.[27] Cùng năm này, vị đạo diễn tung ra bộ phim hoạt hình đầu tay Những cuộc phiêu lưu của Tintin, là thành phẩm hợp tác với Peter Jackson, dựa trên bộ truyện tranh cùng tên của Hergé.[28] Năm 2016, Chuyện chưa kể ở xứ sở khổng lồ của nhà làm phim được phát hành, và nhanh chóng trở thành quả bom xịt phòng vé.[29][30][31] Để khẳng định lại vị thế của mình tại Hollywood, Steven Spielberg cho ra mắt Ready Player One: Đấu trường ảo, đã gặt hái thành công vang dội và góp phần nâng tổng danh thu các phim của ông lên con số 10 tỉ USD,[32] qua đó trở thành đạo diễn đầu tiên làm được điều này,[33] Đồng thời cũng là đạo diễn ăn khách nhất mọi thời đại (tính đến năm 2020).[32][34]