Samuel Eto'o
From Wikipedia, the free encyclopedia
Samuel Eto'o (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1981 tại Nikon, Cameroon) là cựu tiền đạo bóng đá người Cameroon. Anh là cầu thủ châu Phi giành nhiều danh hiệu nhất mọi thời đại. Anh sở hữu kỷ lục 4 lần giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi (bằng với Yaya Touré). Hiện anh đang là chủ tịch Liên đoàn bóng đá Cameroon.
Eto'o năm 2011 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Samuel Eto'o Fils[1] | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,80 m (5 ft 11 in)[2][3] | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền đạo cắm | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
1992–1996 | Kadji Sports Academy | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
1996–1997 | Real Madrid | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
1997–2000 | Real Madrid | 3 | (0) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
1997–1998 | → Leganés (mượn) | 28 | (3) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
1999 | → Espanyol (mượn) | 0 | (0) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2000 | → Mallorca (mượn) | 13 | (6) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2000–2004 | Mallorca | 120 | (48) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2004–2009 | Barcelona | 144 | (108) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2009–2011 | Inter Milan | 67 | (33) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2011–2013 | Anzhi Makhachkala | 53 | (25) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2013–2014 | Chelsea | 21 | (9) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2014–2015 | Everton | 14 | (3) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2015 | Sampdoria | 18 | (2) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2015–2018 | Antalyaspor | 76 | (44) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2018 | Konyaspor | 13 | (6) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2018–2019 | Qatar SC | 17 | (6) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Tổng cộng | 587 | (293) | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
2000 | U-23 Cameroon | 6 | (1) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
1997–2014 | Cameroon | 118 | (56) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp quản lý | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
2015–2016 | Antalyaspor (cầu thủ kiêm huấn luyện viên tạm quyền) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thành tích huy chương
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Khoác áo ĐTQG Cameroon khi mới 16 tuổi, được xem là tài năng trẻ triển vọng nhất Thế giới lúc bấy giờ, không quá khó hiểu khi Real Madrid muốn chiêu mộ bằng được Eto'o thời điểm ấy. Ở tuổi 19, Eto'o là trụ cột giúp U23 Cameroon giành HCV bóng đá nam Olympic năm 2000. Anh cũng đã tham dự 4 kỳ World Cup và 6 lần tham dự Cúp bóng đá châu Phi (là nhà vô địch hai lần) và là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử của Cúp bóng đá châu Phi, với 18 bàn thắng. Anh cũng là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của Cameroon với 58 bàn thắng. Anh tuyên bố giã từ ĐTQG vào ngày 27/8/2014. Năm 2015, Eto'o nhận được giải thưởng Golden Foot.
Eto'o ghi được hơn 100 bàn thắng trong 5 mùa giải với Barcelona, và cũng là người giữ kỷ lục về số lần ra sân của một cầu thủ châu Phi tại La Liga. Năm 2010, anh trở thành cầu thủ duy nhất có 2 cú ăn ba trong 2 năm liên tiếp, và giành hai chức vô địch Champions League liên tiếp với 2 CLB khác nhau. Eto'o là cầu thủ đầu tiên trong lịch sử ghi bàn trong hai trận chung kết UEFA Champions League liên tiếp.
Samuel Eto'o được các nhà chuyên môn tại châu Phi đánh giá là "Cầu thủ châu Phi Vĩ đại nhất mọi Thời đại" khi vượt qua những Abedi Pele, Jay-Jay Okocha, Nwankwo Kanu, Roger Milla. Didier Drogba xếp thứ 3, George Weah xếp thứ 2 trong cuộc bầu chọn này.[4]
Eto'o được biết đến với biệt danh "Báo đen". Ngày 7 tháng 9 năm 2019, Samuel Eto'o chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 27 năm thi đấu chuyên nghiệp.
Vào tháng 9 năm 2021, Samuel Eto'o, tuyên bố ứng cử chức chủ tịch Liên đoàn bóng đá Cameroon (Fecafoot). Ngày 12 tháng 12 cùng năm, anh chính thức trở thành Chủ tịch Liên đoàn bóng đá Cameroon.