Mô hình tôn giáo thế giới được phát triển ở Vương quốc Anh trong những năm 1960, nơi nó được các học giả hiện tượng học như Ninian Smart làm tiên phong. Phạm trù này được thiết kế để mở rộng việc nghiên cứu tôn giáo ra khỏi sự ảnh hưởng nặng nề vào Cơ đốc giáo bằng cách tính đến các truyền thống tôn giáo lớn khác trên khắp thế giới. Mô hình này thường được các giảng viên sử dụng để hướng dẫn sinh viên đại học nghiên cứu về tôn giáo và cũng là khuôn khổ được các giáo viên phổ thông ở Vương quốc Anh và các quốc gia khác sử dụng. Sự nhấn mạnh của mô hình này vào việc xem các phong trào tôn giáo này như những thực thể riêng biệt và loại trừ lẫn nhau cũng đã có tác động rộng hơn đến việc phân loại tôn giáo—ví dụ như trong các cuộc điều tra dân số—ở cả các nước phương Tây và các nơi khác. Học giả tôn giáo Graham Harvey đã lưu ý rằng các nhóm được xếp vào các danh mục như "tôn giáo bản địa" được nhiều học giả đối xử ít nghiêm túc hơn so với "tôn giáo thế giới" "Các tôn giáo bản địa nên nhận được sự đối xử tôn trọng tương tự như cách được coi là phù hợp với Tôn giáo toàn cầu lớn hơn[4].
Kể từ cuối thế kỷ 20, mô hình này đã phải đối mặt với sự chỉ trích của các học giả tôn giáo như Jonathan Z. Smith, một số người trong số họ đã lập luận ủng hộ việc từ bỏ nó. Các nhà phê bình cho rằng mô hình tôn giáo thế giới là không phù hợp vì nó lấy hình thức Tin lành của Cơ đốc giáo làm hình mẫu cho những gì cấu thành nên "tôn giáo", rằng nó gắn liền với các diễn ngôn về tính hiện đại, bao gồm cả các mối quan hệ quyền lực hiện đại; rằng nó khuyến khích sự hiểu biết không phê phán về tôn giáo; và nó đưa ra đánh giá có giá trị về việc tôn giáo nào nên được coi là "chính". Những người khác lập luận rằng nó vẫn hữu ích trong lớp học, miễn là học sinh được biết rằng đó là một phạm trù được xã hội xây dựng. học giả tôn giáo gồm Christopher R. Cotter và David G. Robertson đã mô tả "Mô hình tôn giáo thế giới" là "một cách suy nghĩ cụ thể về các tôn giáo, tổ chức chúng thành một tập hợp các truyền thống riêng biệt với một quan điểm được cho là toàn cầu[5]. Cotter và Robertson lưu ý rằng lịch sử của mô hình tôn giáo thế giới "gắn bó mật thiết" với lịch sử nghiên cứu tôn giáo như một môn học thuật[6]. Nó xuất hiện từ bên trong cách tiếp cận hiện tượng học tôn giáo vốn nhấn mạnh vào việc mô tả hơn là phân tích phê phán[7].
Baldrick-Morrone, Tara; Graziano, Michael; Stoddard, Brad (2016). “'Not a Task for Amateurs': Graduate Instructors and Critical Theory in the World Religions Classroom”. Trong Christopher R. Cotter; David G. Robertson (biên tập). After World Religions: Reconstructing Religious Studies. London and New York: Routledge. tr.37–47. ISBN978-1-138-91912-9.
Cotter, Christopher; Robertson, David G. (2016a). “Preface”. Trong Christopher R. Cotter; David G. Robertson (biên tập). After World Religions: Reconstructing Religious Studies. London and New York: Routledge. tr.vii–viii. ISBN978-1-138-91912-9.
Cotter, Christopher; Robertson, David G. (2016b). “Introduction: The World Religions Paradigm in Contemporary Religious Studies”. Trong Christopher R. Cotter; David G. Robertson (biên tập). After World Religions: Reconstructing Religious Studies. London and New York: Routledge. tr.1–20. ISBN978-1-138-91912-9.
Cox, James L. (2016). “Foreword: Before the 'After' in 'After World Religions' – Wilfred Cantwell Smith on the Meaning and End of Religion”. Trong Christopher R. Cotter; David G. Robertson (biên tập). After World Religions: Reconstructing Religious Studies. London and New York: Routledge. tr.xii–xvii. ISBN978-1-138-91912-9.
Harvey, Graham (2000). “Introduction”. Trong Graham Harvey (biên tập). Indigenous Religions: A Companion. London and New York: Cassell. tr.1–19. ISBN978-0-304-70448-4.
Harvey, Graham (2013). Food, Sex and Strangers: Understanding Religion as Everyday Life. Durham: Acumen. ISBN978-1-84465-693-6.
Owen, Suzanne (2011). “The World Religions Paradigm: Time for a Change”. Arts & Humanities in Higher Education. 10 (3): 253–268. doi:10.1177/1474022211408038. S2CID143839960.
Ramey, Steven W. (2016). “The Critical Embrace: Teaching the World Religions Paradigm as Data”. Trong Christopher R. Cotter; David G. Robertson (biên tập). After World Religions: Reconstructing Religious Studies. London and New York: Routledge. tr.48–60. ISBN978-1-138-91912-9.
Smith, Jonathan Z. (1978). Map is Not Territory: Studies in the History of Religions. Chicago and London: University of Chicago Press. ISBN978-0-226-76357-6.
Sutcliffe, Steven J. (2016). “The Problem of 'Religions': Teaching Against the Grain with 'New Age Stuff'”. Trong Christopher R. Cotter; David G. Robertson (biên tập). After World Religions: Reconstructing Religious Studies. London and New York: Routledge. tr.23–36. ISBN978-1-138-91912-9.
Taira, Teemu (2016). “Doing Things with 'Religion': A Discursive Approach in Rethinking the World Religions Paradigm”. Trong Christopher R. Cotter; David G. Robertson (biên tập). After World Religions: Reconstructing Religious Studies. London and New York: Routledge. tr.75–91. ISBN978-1-138-91912-9.
Searle-Chatterjee, M. (2000). “"World Religions" and "Ethnic Groups": Do these Paradigms lend themselves to the Cause of Hindu Nationalism?”. Ethnic and Racial Studies. 23 (3): 497–515. doi:10.1080/014198700328962. S2CID145681756.