Tống Cung Đế
hoàng đế nhà Tống / From Wikipedia, the free encyclopedia
Tống Cung Đế (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323[1]), hay còn gọi là Doanh Quốc công, Tống Đế Hiển (宋帝㬎), tên thật là Triệu Hiển (趙㬎), là vị hoàng đế thứ 16 của triều đại nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông nối ngôi sau cái chết của cha Tống Độ Tông vào năm 1274. Trong thời gian Cung Đế trị vì, triều đại nhà Tống luôn bị điên đảo trước cuộc xâm lược mạnh mẽ của binh đoàn Mông - Nguyên. Lúc này, đội quân Mông Cổ đã vượt qua dòng sông Dương Tử (Trường Giang), và trên đường tiến chiếm lấy vùng Hàng Châu. Bị giặc ép buộc phải đầu hàng, Thái hoàng Thái hậu nhà Nam Tống phải buộc sang chầu Mông - Nguyên. Sau đó, tuy chính quyền Nam Tống ra sức tìm cách kháng Nguyên, nhưng trước thế mạnh đối phương, Tống Cung Đế bị bắt.
Tống Cung Đế 宋恭帝 | |||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Trung Hoa | |||||||||||||||||||||
Tranh vẽ Tống Cung Đế. | |||||||||||||||||||||
Hoàng đế Đại Tống | |||||||||||||||||||||
Trị vì | 1274 – 1276 | ||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Tống Độ Tông | ||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Tống Đoan Tông | ||||||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||||||
Sinh | 2 tháng 11, 1271 Lâm An, Trung Quốc | ||||||||||||||||||||
Mất | tháng 5, 1323 Trung Quốc | ||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||
Triều đại | Nhà Nam Tống | ||||||||||||||||||||
Thân phụ | Tống Độ Tông | ||||||||||||||||||||
Thân mẫu | Toàn hoàng hậu (Tống Độ Tông) | ||||||||||||||||||||
Tôn giáo | Phật giáo |
Sau khi bị bắt, đối phương không giết ông, mà giáng phong ông làm Doanh quốc công, và đến năm 1289, Khả hãn Mông Cổ là Hốt Tất Liệt (Khubilai Khan, sau này là Nguyên Thế Tổ, chiếm trọn Trung Hoa) đưa Tống Cung Đế đến sống ở miền Tây Tạng, bắt ông phải cắt tóc đi tu[2]. Trong thời gian làm nhà sư, Cung Đế đã có nhiều đóng góp to lớn với Phật giáo Trung Quốc[3], đặc biệt trong nửa cuộc đời còn lại của mình, ông chuyên tâm vào con đường dịch sách kinh của Phật giáo Tây Tạng thành tiếng Hoa để truyền bá cho dân tộc Trung Hoa về những giáo lý mới trong Phật giáo Lạt Ma Tây Tạng[3].
Nhưng, ông không bao giờ quên mình là Hoàng đế của Nam Tống, bản thân ông căm thù Mông Cổ, nhưng bất lực, nên ông tiêu khiển bằng cách làm thơ[2]. Các bài thơ của ông thể hiện sự ước ao yên bình cho triều đại Nam Tống của mình, thể hiện ý chí căm thù Mông Nguyên, quyết không phục họ; cũng vì vậy, mà bài thơ này đã chọc tức đến Hoàng đế Mông Nguyên[2]. Hậu quả là cái chết đã giáng xuống đầu ông vào năm 1323, lúc ông 53 tuổi.