![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/b/bb/Huaxiasiyi.svg/langvi-640px-Huaxiasiyi.svg.png&w=640&q=50)
Tứ Di
From Wikipedia, the free encyclopedia
Tứ di (四夷) là thuật ngữ miệt thị trong lịch sử Trung Quốc hình thành từ thời nhà Chu để chỉ các bộ lạc dân tộc ngoài Trung Nguyên cổ đại bao quanh Trung Quốc, tên gọi "Trung Quốc" cũng xuất hiện ở vào thời điểm này.
![Thumb image](http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/b/bb/Huaxiasiyi.svg/640px-Huaxiasiyi.svg.png)
Thời Chu, lý thuyết Địa lý Trung Quốc coi "Trung Quốc" là "nước ở trung tâm" và người ở tại đó được coi là người đã giáo hóa văn minh, còn xung quanh bốn phương là Tứ di: man di mọi rợ. Vùng đất khởi phát của người Trung Quốc là vùng Hoa Hạ (華夏) được cai trị bởi một nhà nước quân chủ được cho là có được "Thiên mệnh". Từ thời kỳ Hán Vũ Đế của nhà Hán, Nho giáo được công nhận là hệ tư tưởng quốc gia, điều này đã bổ sung lý thuyết và thúc đẩy cho thuật ngữ miệt thị này,[1] và là nguồn của các thuật ngữ Trung Hoa, người Hoa. Người ở phương đông gọi là Đông Di (東夷), phương tây gọi là Tây Nhung (西戎), phương Nam gọi là Nam Man (南蠻), và phương Bắc gọi là Bắc Địch (北狄), trong đó các chữ tượng hình chỉ các nhóm này đều có phần biểu thị "sâu bọ thú vật", ví dụ họ khuyển (chó) 犭 [2][3]. Ngày nay chữ Hán đã lược bỏ phần biểu tượng này đi, nên trong các chữ Hán dẫn ra ở trên chỉ còn có ở chữ Địch (狄).
Quá trình bành trướng đồng hóa các vùng lãnh thổ được mở rộng, dẫn đến biên giới với tứ di xê dịch.