Thành viên:Naazulene/Hiệu ứng người sáng lập
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trong di truyền học quần thể, hiệu ứng người sáng lập là sự sụt giảm đa dạng di truyền của quần thể khi chúng tách từ quần thể lớn hơn. Hiệu ứng này được lần đầu miêu tả đầy đủ bởi Ernst Mayr vào năm 1942,[1] dựa trên các công trình lí thuyết của nhiều nhà nghiên cứu khác, trong đó có Sewall Wright.[2] Vì sự sụt giảm đa dạng di truyền này, cấu trúc quần thể mới có thể rất khác với quần thể ban đầu, cả về kiểu gen lẫn kiểu hình. Trong một số trường hợp, hiệu ứng người sáng lập thậm chí dẫn đến sự hình thành loài mới và từ đó, sự tiến hóa.[3]
Như giản đồ miêu tả, quần thể lớn ban đầu có tỉ lệ cá thể đỏ và xanh tương đương, còn ở ba quần thể sáng lập lại có một màu chiếm ưu thế, đó là vì sự ngẫu nhiên khi lấy mẫu từ quần thể ban đầu. Hiệu ứng thắt cổ chai cũng có thể gây ra hiệu ứng người sáng lập, nhưng không nhất thiết sẽ tạo ra quần thể mới.
Hiệu ứng người sáng lập thường diễn ra khi một vài cá thể tách ra khỏi quần thể mẹ để di cư đến một vùng khác, hình thành quần thể con.[4][5] Vì là nhóm cá thể ban đầu có vốn gen nhỏ hơn và tỉ lệ alen khác với quần thể mẹ, quần thể con sinh sôi từ nhóm đó có cấu trúc di truyền khác quần thể mẹ. Thêm vào đó, quần thể con thường là một quần thể nhỏ nên nó mẫn cảm hơn với phiêu bạt di truyền và ảnh hưởng của lai gần (giao phối cận huyết).