Thái Lan
quốc gia nằm ở Đông Nam Á / From Wikipedia, the free encyclopedia
Thái Lan (tiếng Thái: ประเทศไทย, chuyển tự Prathet Thai), hay gọi ngắn là Thái (tiếng Thái: ไทย, chuyển tự Thai),[7] quốc hiệu chính thức là Vương quốc Thái Lan (tiếng Thái: ราชอาณาจักรไทย, chuyển tự Racha-anachak Thai), là một quốc gia độc lập có chủ quyền ở khu vực Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanmar, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam giáp vịnh Thái Lan và Malaysia, phía tây giáp Myanmar và biển Andaman. Lãnh hải Thái Lan ở phía đông nam tiếp giáp với lãnh hải Việt Nam ở vịnh Thái Lan, phía tây nam giáp với lãnh hải Indonesia và Ấn Độ qua biển Andaman.
Vương quốc Thái Lan
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
Tiêu ngữ: "ชาติ ศาสนา พระมหากษัตริย์"(Thái) Chat, Satsana, Phra Maha Kasat "Tổ quốc, tôn giáo, nhà vua" | |
Vị trí Thái Lan (xanh) trên thế giới | |
Tổng quan | |
Thủ đô và thành phố lớn nhất | Băng Cốc (Krungthep Maha Nakhon) 13°45′B 100°29′Đ |
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Thái |
Sắc tộc |
|
Tôn giáo chính |
|
Tên dân cư | Người Thái Lan |
Chính trị | |
Chính phủ | Quân chủ lập hiến đại nghị chế |
Maha Vajiralongkorn | |
Srettha Thavisin | |
Pornpetch Wichitcholchai | |
Wan Muhamad Noor Matha | |
Lập pháp | Quốc hội |
Thượng viện | |
• Hạ viện | Viện dân biểu |
Lịch sử | |
Vương quốc | |
1238–1448 | |
1351–1767 | |
1768–1782 | |
6 tháng 4 năm 1782 | |
24 tháng 6 năm 1932 | |
• Hiến pháp hiện hành | 6 tháng 4 năm 2017 |
Địa lý | |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 508,130 km2 (hạng 76) 196 mi2 |
• Mặt nước (%) | 0,4 |
Dân số | |
• Ước lượng 2018 | 67,000,000[3] (hạng 27) |
• Điều tra 2010 | 64.785.909[4] (hạng 27) |
• Mật độ | 132/km2 (hạng 88) 342/mi2 |
Kinh tế | |
GDP (PPP) | Ước lượng 2020 |
• Tổng số | 1.261.4 tỷ USD (hạng 21) |
18.073 USD (hạng 70) | |
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2019 |
• Tổng số | 509.2 tỷ USD (hạng 25) |
• Bình quân đầu người | 7.295 USD (hạng 77) |
Đơn vị tiền tệ | Baht (฿) (THB) |
Thông tin khác | |
Gini? (2015) | 36[5] trung bình |
HDI? (2019) | 0,800[6] rất cao · hạng 66 |
Múi giờ | UTC+7 (ICT) |
UTC+7 (ICT) | |
Giao thông bên | trái |
Mã điện thoại | +66 |
Mã ISO 3166 | TH |
Tên miền Internet |
Thái Lan có diện tích 508.130 km², dân số vào khoảng 76 triệu người (ước tính 2023). Khoảng 75% là dân tộc Thái, 21% là người Thái gốc Hoa và 6% là người Mã Lai, phần còn lại là những nhóm thiểu số như Môn, Khmer và các dân tộc khác.[8] Thống kê có khoảng 2,1 triệu người nhập cư hợp pháp cũng như bất hợp pháp ở Thái Lan, trong đó, số bất hợp pháp có thể lên tới hơn 1 triệu người[9], dẫn đến những hệ quả như tội phạm gia tăng và khoảng cách của sự bất bình đẳng xã hội ngày một lớn.[10]
Thái Lan là một quốc gia Quân chủ lập hiến kết hợp với nghị viện. Hoàng tộc Mahidol của Vương triều Chakri là biểu tượng quốc gia, Quốc vương theo hiến pháp là nguyên thủ quốc gia, giữ chức vụ Tổng tư lệnh quân đội kiêm Nhà lãnh đạo tinh thần Phật giáo. Vua Thái hiện nay là Rama X, người kế vị ngai vàng từ Hội đồng lập pháp vào năm 2016, sau khi cha ông là Rama IX băng hà cùng năm đó.
Sản xuất, lắp ráp, chế tạo hàng công nghiệp nhẹ, điện tử, xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp, ngư nghiệp cùng du lịch là những lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế. Kinh tế Thái Lan đã phát triển nhanh từ năm 1985 đến 1995. Thập niên 1990, quốc gia này từng được công nhận là một ‟Hổ mới châu Á"[11], nhưng kể từ sau khi hứng chịu cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 thì kinh tế nước này đã trở nên trì trệ với tốc độ tăng trưởng chậm chạp. Đến đầu thập niên 2020, nước này bị coi là đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình bởi gánh nặng của già hóa dân số, hệ thống giáo dục suy thoái và nền nông nghiệp trình độ thấp[12]
Thái Lan là một trong những nước tham gia sáng lập ASEAN, thành viên của các Tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, WTO, APEC, Phong trào không liên kết,... và là khách mời thường trực của Hội nghị thượng đỉnh G-20.[13][14] Chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức cao, cũng như là nền kinh tế lớn thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á chỉ sau Indonesia, xếp hạng 25 toàn cầu theo GDP danh nghĩa[15], xếp thứ 21 thế giới xét theo sức mua tương đương[16], đứng thứ 28 trên thế giới về tổng giá trị thương hiệu quốc gia (2020)[17]
Tuy nhiên hiện nay, Thái Lan đang gặp phải những vấn đề nghiêm trọng: kinh tế trì trệ suốt từ năm 1997 tới nay, bất ổn chính trị liên tiếp, nạn tham nhũng, sự yếu kém trong việc hoạch định chính sách pháp luật, sự lỏng lẻo trong quản lý an ninh, tình trạng nhập cư bất hợp pháp[9][18][19] dẫn đến tội phạm gia tăng, tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm, buôn người…) ngày càng lan rộng cùng nạn sở hữu súng đạn trái phép[20], sự phân hóa giàu nghèo cao và sự nổi lên của chủ nghĩa khủng bố do các phần tử Hồi giáo cực đoan ở khắp đất nước tiến hành đang là những vấn đề nhức nhối. Đặc biệt, vấn nạn già hóa dân số do suy giảm sinh sản tại Thái Lan đang diễn ra với tốc độ nhanh nhất thế giới và sẽ khiến nước này ngày càng trì trệ trong dài hạn.[21]
Tên gọi Thái Lan trong tiếng Việt là phiên âm bắt nguồn từ tên tiếng Pháp Thaïlande cũng như tên gọi tiếng Anh Thailand.[22] Báo Trung Bắc chủ nhật số 42, ngày 22 tháng 12 năm 1940, có đăng một bài viết có tiêu đề "Địa vị quan hệ của Thái Lan về kinh tế ở Viễn Đông". Bài báo này mở đầu bằng đoạn:[23]
Sau khi đã giải quyết xong những việc lôi thôi về biên giới và đất đai bằng mấy bản hợp ước vào các năm 1903, 1904, 1907, từ hơn 30 năm nay cuộc giao-thiệp giữa Thái Lan và Đông Dương, hai nước lân cận và nhiều quyền lợi chung trên bán đảo Ấn Độ China nay vẫn giữ vẻ hòa hiếu và càng ngày càng thêm thân mật.
Thái Lan cũng từng được gọi là Xiêm (Siam), đây là tên gọi chính thức đến ngày 23 tháng 6 năm 1940 khi nó được đổi thành Thái Lan.[24] Từ năm 1945 đến ngày 11 tháng 5 năm 1949, tên Thái Lan lại được đổi lại thành Xiêm. Sau đó nó được đổi lại thành Thái Lan như ngày nay.
Trong tiếng Thái, nước này có nhiều cách gọi. Gọi một cách bình thường ngắn gọn là ไทย (Thai), từ này trong tiếng Thái có nghĩa gốc là "tự do". Gọi một cách trang trọng đầy đủ là ราชอาณาจักรไทย (Racha Anachakra Thai), với hai chữ ราชา (Racha) và อาณาจักร (Anachakra) thì có gốc từ tiếng Phạn: Racha có nghĩa là "quốc vương", Anachakra có nghĩa là "lãnh thổ". Ý của cụm từ Racha Anachakra Thai là "Vương quốc của người tự do". Tuy nhiên, một học giả nổi tiếng người Thái cho rằng từ Thai (ไทย) đơn giản chỉ có nghĩa là "người" vì điều tra của ông cho thấy rằng tại một số vùng nông thôn từ "Thai" được dùng thay thế cho từ "khon" (คน) nghĩa là người.[25] Vì vậy "Thái" cũng là danh xưng để gọi người Thái.
Người Thái còn gọi nước mình một cách dân dã là เมืองไทย Mueang Thai (Mường Thái) và từ Mueang còn được dùng rộng rãi để chỉ thành phố, thị trấn. Ngoài ra từ ประเทศไทย Prathet Thai (Prathét Thái) cũng được sử dụng để gọi Thái Lan. Hai chữ Mueang và Prathet có cùng nghĩa "nước, quốc gia". Prathet có gốc từ chữ प्रदेश (pradeśa) trong tiếng Phạn, còn Mueang là một từ Thái cổ có cùng gốc với các từ Muang (ເມືອງ [mɯaŋ˦]) trong tiếng Lào, Mong (မိူင်း [məŋ˦]) trong tiếng Shan, mwngh ([mɯŋ˧]) trong tiếng Tráng, khởi nguyên mang nghĩa "thung lũng trồng lúa".[26]
Ở Trung Quốc, vương quốc này được gọi là "Thái Quốc" (泰國), hay "Thái Vương Quốc" (泰王國). Người Việt trước đây còn gọi Thái Lan là "Xiêm La" (暹羅) và người Thái là "người Xiêm".
Thời kỳ đầu
Nhiều nền văn hóa khác nhau đã có mặt tại đây từ thời Văn hóa Baan Chiang. Nhưng do vị trí địa lý, văn hóa Thái Lan luôn chịu ảnh hưởng từ Ấn Độ và Trung Quốc cũng như từ những nước láng giềng Đông Nam Á khác. Đất nước Thái Lan là đất nước thuộc Đông Nam Á duy nhất không bị thực dân châu Âu xâm lược.
Theo sử sách Thái Lan, người Thái xuất xứ từ vùng núi Altai, đông bắc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc từ 4500 năm trước, sau đó di cư dần xuống vùng đất hiện nay là Thái Lan. Có nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của người Thái, một trong số đó liên hệ người Thái tới sự di cư ào ạt sau sự sụp đổ của vương quốc Đại Lý ở vùng Vân Nam thế kỷ XIII đã bị chứng minh là không chính xác.[27] Các nghiên cứu ngôn ngữ học chỉ ra rằng nguồn gốc của người Thái cổ nằm ở vùng ranh giới Quảng Tây-Quý Châu ngày nay, nơi người Tráng và Bố Y vẫn sinh sống.[26][28] Khoảng thế kỷ thứ VIII-thế kỷ X,[29] họ bắt đầu di cư xuống phía nam vào vùng ngày nay là bắc Lào và Chiêng Sẻn (Chiang Saen เชียงแสน) qua Muang Then (nay là Mường Thanh, Điện Biên Phủ, Việt Nam), sau đó tỏa xuống đồng bằng sông Chao Phraya. Tại vùng đất mới của mình, người Thái đánh đuổi các cư dân bản địa như người Môn, Khom( tầng lớp thống trị đế quốc Angkor và không phải tổ tiên của người Khmer hiện đại,... đồng thời người Thái cũng tự mình đồng hóa nếp sống văn hóa tín ngưỡng với người Môn đặc biệt là tiếp thu Phật giáo Ấn Độ từ dân tộc bản địa.
Vương quốc Sukhothai
Cho đến đầu thế kỷ 13, người Thái dù đã định cư vững chắc ở miền Bắc Thái Lan ngày nay, song họ phải chịu sự chi phối của Đế quốc Khmer hùng mạnh. Tuy nhiên, Đế chế Khom đã bắt đầu suy yếu từ sau khi vua Jayavarman VII qua đời, khiến cho sức ảnh hưởng của người Khom ở vùng đất người Thái định cư suy yếu đáng kể. Kết quả, năm 1232, Pho Khun Pha Muang là thủ lĩnh người Thái ở Vương quốc Lavo và Pho Khun Bang Klang Hao là thủ lĩnh người Thái ở Banyang (nay là Nakhonthai) đã cùng nhau đánh đuổi quân Khmer, tuyên bố độc lập, chiếm thành phố Sukhothai làm kinh đô của mình. Pho Khun Bang Klang Hao sau đó trở thành vị vua đầu tiên của Sukhothai, tự xưng là Pho Khun Si Indrathit (hay Intradit), lập niên triều đại đầu tiên của Sukhothai là Triều Phra Ruang. Sự kiện này về mặt truyền thống đã đánh dấu sự thành lập quốc gia Thái.[30]
Sukhothai mở rộng bằng cách tạo các liên minh với các vương quốc Thái khác, dùng Phật giáo Thượng tọa bộ làm quốc giáo với sự giúp đỡ của các nhà sư Ceylon. Intradit truyền ngôi cho con trai là Pho Khun Ban Muang, và năm 1278 đến lượt em trai là Pho Khun Ramkhamhaeng kế vị. Dưới thời vua Ramkhamhaeng Đại Đế, Sukhothai trải qua một thời kỳ hoàng kim thịnh vượng. Ramkhamhaeng đã có công cái tiến chữ cái Khom Pallava thành bảng chữ cái Thái. Vào thời đỉnh cao của mình, ảnh hưởng của vương quốc này trải dài từ Martaban (nay thuộc Myanmar) đến Luang Prabang (nay thuộc Lào) và xuống tận bán đảo Mã Lai cho đến phía Nam tận Nakhon Si Thammarat, phạm vi ảnh hưởng của vương quốc này rộng hơn nhiều so với lãnh thổ Thái Lan ngày nay, dù mức độ kiểm soát thực tế không như tầm ảnh hưởng.[31]
Sau khi Ramkhamhaeng băng hà, vương quốc này đã nhanh chóng suy giảm về lại với tầm vóc của thời kỳ đầu. Trong khi đó, Ayutthaya trở nên hùng mạnh, và cuối cùng vào năm 1378, vua Thammaracha II của Sukhothai đã phải chịu thuần phục cường quốc mới này. Sukhothai trở thành chư hầu của quốc gia Ayutthaya giữa 1365 và 1378. Năm 1412, Ayutthaya đã dựng lên một thái thú và vua Thammaracha IV được Ayutthaya đưa lên ngôi. Khoảng năm 1430, Thammaracha dời đô đến Phitsanulok. Sau cái chết của ông năm 1438, vương quốc này bị hạ xuống chỉ còn là một tỉnh của Ayutthaya.[32]
Vương quốc Ayutthaya
Từ thời vua Luethai, vương quốc Sukhothai bắt đầu suy yếu. Các chư hầu của Sukhothai bắt đầu công khai chống lại. Một trong số đó là khu vực Suphanburi do U Thong cai trị. Năm 1343, U Thong đã dời trung tâm của mình xuống đồng bằng Chao Phraya. Trên một cù lao sông, ông cho lập kinh đô mới gọi là Vương quốc Ayutthaya. Năm 1360, Uthong tuyên bố Phật giáo Thượng tọa bộ là quốc giáo của Ayutthaya, cố gắng mở rộng vương quốc của mình bằng cách chinh phục các vương quốc khác ở miền Bắc. Vào cuối thế kỷ 14, Ayutthaya đã được xem là cường quốc mạnh nhất Đông Nam Á.[33] Trong suốt thế kỷ 15, các nỗ lực của Ayutthaya hướng về bán đảo Malay, nơi có trung tâm thương mại lớn Malacca, làm chư hầu, Ayutthaya tiếp tục kiểm soát việc buôn bán béo bở trên eo đất, thu hút nhiều nhà buôn Trung Hoa mua đặc sản về cho thị trường sa hoa của Trung Hoa.[34]
Năm 1511 Ayutthaya đã tiếp đón một đoàn ngoại giao từ Đế quốc Bồ Đào Nha, Có lẽ họ là những người châu Âu đầu tiên viếng thăm đất nước này. 5 năm sau, Ayutthaya và Bồ Đào Nha đã ký một hiệp ước cho phép người Bồ Đào Nha buôn bán ở vương quốc này. Một hiệp ước tương tự năm 1592 đã cho người Đế quốc Hà Lan một vị trí đặc quyền trong việc mua bán lúa gạo.[35]
Thế kỷ 16 chứng kiến sự lớn mạnh của Triều Taungoo dưới thời vua Bayinnaung, dưới một triều đại hiếu chiến, đã chiếm lấy Lan Na và Lan Xang và gây chiến với Ayutthaya. Năm 1569 các đội quân Taungoo, liên minh với phiến quân Ayutthaya - phần lớn là người của hoàng tộc Ayutthaya, đã đoạt được thành Ayutthaya và đưa cả hoàng gia qua Taungoo. Dhammaraja (1569-90), một thống đốc người Xiêm trước đó đã giúp đỡ quân Miến Điện đã được dựng lên ngôi vua chư hầu ở Ayutthaya. Sự độc lập của Ayutthaya đã được con trai ông là vua Naresuan (1590-1605) tái lập. Naresuan đã chống lại Taungoo và đến năm 1600 đã đẩy lùi Miến Điện khỏi Ayutthaya.[36]
Những người nước ngoài được tiếp đón trọng thị ở triều đình của Narai (1657–1688)[37], một nhà vua có tầm nhìn thế giới tuy thận trọng về ảnh hưởng của bên ngoài. Các mối quan hệ thương mại quan trọng được tạo lập với Nhật Bản. Các công ty thương mại Đế quốc Anh và Đế quốc Hà Lan được phép lập nhà máy và các phái đoàn ngoại giao Ayutthaya được phái tới Paris hay La Hague. Nhờ duy trì những mối quan hệ này, triều đình Ayutthaya đã khéo léo khiến Hà Lan chống lại Anh và Đệ Nhất Đế chế Pháp, tránh được một sự ảnh hưởng Ayutthaya quá của một cường quốc. Narai đã xây công sự, đài quan sát và một cung điện tại Lopburi. Ngoài ra, những người truyền giáo Pháp đã tham gia giáo dục và y tế và đã mang đến báo in đầu tiên ở nước này.[38]
Sau một thời kỳ chiến tranh đẫm máu tranh giành quyền lực, Ayutthaya bước sang thời kỳ vàng son, thịnh trị kéo dài 25 năm cuối cùng của thế kỷ 18. Văn học, nghệ thuật và các học thuật đều phát triển rực rỡ. Mối đe dọa lớn hơn không đến từ phương đông mà từ biên giới phía tây khi Miến Điện dưới triều đại mới của Alaungpaya mở cuộc xâm lăng,[39] chinh phục các tiểu quốc của người Shan giáp với đất Thái.
Năm 1765 Miến Điện mở cuộc tấn công ồ ạt nhắm vào Ayutthaya. Sử Thái ghi rằng Ayutthaya điều binh kháng cự, cố thủ thị trấn Bang Rajan. Bị quân Miến vây hãm lâu dài Bang Rajan cuối cùng cũng thất thủ; kinh thành Auytthaya bị đốt sạch; đó là năm 1767. Đền đài cùng công trình nghệ thuật kể cả những kho sách quý ghi chép văn sử học của người Thái bị tiêu hủy cả.[40]
Vương quốc Thonburi
Khi vương quốc Ayutthaya sụp đổ, một vị tướng người Xiêm có tên là Taksin cũng đang ở đó. Tập hợp những người ủng hộ mình thành một đội quân, một năm sau đó ông đã chiếm lại được thành phố, Có thể Taksin nhận thấy rằng Ayutthaya bị tàn phá nghiêm trọng nên việc khôi phục nó về tình trạng cũ chắc chắc sẽ quá sức đối với nguồn lực của ông. Người Miến quá quen thuộc với các tuyến đường để tiến đến Ayutthaya, và trong trường hợp người Miến lại tiến công, thì binh sĩ của ông sẽ không thể đủ sức bảo vệ thành phố. Do vậy, ông lập đô tại Thonburi, là nơi gần biển hơn Ayutthaya. Ngoài việc sẽ khó xâm nhập Thon Buri bằng đường bộ, sự lựa chọn này cũng sẽ ngăn chặn việc thu thập vũ khí và thiết bị quân sự của bất cứ ai có tham vọng biến bản thân thành một vương độc lập ở xa về thượng du sông Chao Phraya.[41][42]
Những thắng lợi trước các đối thủ quyền lực là nhờ năng lực chiến đấu như một chiến binh của Taksin. Ông thường ở tiền tuyến trong khi đấu với kẻ địch, nhờ vậy truyền sĩ khí cho binh sĩ để họ bất chấp nguy hiểm. Trong số những quan chức gắn vận mệnh với ông có hai cá nhân mà sau này đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử Thái Lan, họ là hai người con của một quan chức mang tước Pra Acksonsuntornsmiantra (พระอักษรสุนทรเสมียนตรา), người anh là Tongduang (ทองด้วง) và sau thành lập vương triều Chakri, người em là Boonma (บุญมา) nắm giữ vị trí quyền lực số hai.[43]
Taksin đã chinh phục được các nước chư hầu, và chiếm lại miền Bắc từ người Miến Điện. Từ đó ông bắt đầu cuộc chinh phục toàn bộ các dân tộc Xiêm. Taksin tấn công người Miến Điện ở phía bắc năm 1774 và chiếm Chiang Mai năm 1776, thống nhất Xiêm.
Nhưng sau đó, một cuộc đảo chính nhằm loại bỏ Taksin khỏi vương vị đã diễn ra.[44] Khi đó có vị tướng ở thành Cổ Lạc làm phản, Taksin lệnh cho tướng Phraya San[45] đi dẹp loạn. Nhưng Phraya San lại là anh trai của vị tướng làm loạn, hai anh em hợp nhau trở lại kinh thành đảo chính. Quân trong thành mở cổng cho Phraya San vào, Taksin bỏ trốn vào chùa nhưng bị bắt giam lại. Phraya San sai người báo cho Chakri biết. Chakri giao một ít binh lính lại cho em trai Sô Si, còn mình thì dẫn đại quân về kinh thành, ngầm sai thủ hại sát hại Taksin rồi vu tội cho Phraya San. Cuối cùng, Chakri giết luôn Phraya San và tự lập làm vua.
Vương quốc Rattanakosin
Chakri làm vua, xưng là Ramathibodi. Đời sau quen gọi ông là Rama I. Ông quyết định dời đô từ Thonburi về Bang Makok, nay chính là Bangkok. Hoàng cung đặt ở khu vực Rattanakosin bốn phía là sông và kênh rạch tạo thành những hào nước phòng thủ tự nhiên. Sử gia phương Tây gọi vương quốc của Rama I là vương quốc Rattanakosin chính vì lý do này.[46]
Năm 1851, Rama IV (Mongkut) lên ngôi. Trái với vua anh (Rama III), Rama IV có thái độ cởi mở hơn với phương Tây. Năm 1855, Xiêm ký với Anh John Bowring, theo đó thuế nhập khẩu các loại vào Xiêm giảm xuống chỉ còn 3%, các độc quyền (kinh tế). Trước những sức ép từ phương Tây, Rama IV muốn cải cách thể chế chính trị trong nước. Song ông không làm được nhiều vì sự phản đối của hoàng gia và quan lại. Dù sao, những nỗ lực của ông đã cho phép những cải cách sau đó phát.
Năm 1868, Rama IV mất. Con trai cả của ông là Chulalongkorn (tức Rama V) lên ngôi vua. Năm 1873, ông đã lên ngôi lần thứ hai. Trong thời gian đi thăm các nước, ông đã học được nhiều chính sách cải cách. Chulalongkorn đã hiện đại hóa triều đình Xiêm thông qua việc du nhập một chế độ Nội các, và hệ thống hành chính tỉnh bán phong kiến được đổi qua thành tỉnh (changwat) và huyện (amphoe) như ngày nay vẫn áp dụng. Ông đã tuyên bố ân xá cho tất cả tù nhân chính trị và dần bỏ chế độ nô lệ. Tuyến đường sắt đầu tiên của Thái Lan đã được khai trương năm 1896 nối Bangkok với Ayutthaya. Trong thời kỳ trị vì của ông, lịch phương Tây đã thay thế âm lịch. Chulalongkorn cũng tuyên bố tự do tôn giáo, cho phép Ki-tô giáo và Hồi giáo được hành đạo trong vương quốc Phật giáo này.[47]
Chính sách "ngoại giao cây sậy" trước thực dân phương Tây
Trong lịch sử lập quốc của mình, Thái Lan từng là một nước lớn theo chủ nghĩa Đại Thái, lấn át các quốc gia láng giềng khi có thể, nhưng tới giữa thế kỷ XIX, Thái Lan đứng trước hiểm họa xâm lăng của các nước thực dân châu Âu. Về phía tây, Đế quốc Anh đã chiếm Miến Điện, trong khi ở phía đông, Pháp đã chiếm 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Thái Lan vô tình trở thành vùng đệm địa lý giữa 2 thế lực thực dân đứng đầu thế giới khi đó là Anh và Pháp. Vì không muốn nổ ra xung đột với đối thủ, Anh và Pháp quyết định trung lập hóa Thái Lan, cả hai sẽ tự kiềm chế, không tiến quân xâm chiếm nước này[48].
Nhờ sự may mắn đó, cũng như biết lợi dụng mâu thuẫn giữa các cường quốc để họ tự kiềm chế nhau[49], nhờ vậy Thái Lan đã tránh được các cuộc xâm lược và được hưởng thời gian độc lập, hòa bình tương đối lâu dài trong thời kỳ đế quốc thực dân xâm chiếm thuộc địa và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Thái Lan đã ký hiệp ước hữu nghị và thương mại với Anh năm 1826 và với Mỹ năm 1833, Hiệp ước trao đổi biên giới các tỉnh phía bắc Malaysia hiện tại năm 1909, nhờ đó thoát khỏi ách thuộc địa của các nước đế quốc lúc bấy giờ đang tranh giành nhau vùng Đông Nam Á. Thái Lan cũng đã ký hiệp định phân định biên giới sông Mekong với Pháp và tránh né xung đột với thực dân Pháp vào cuối thế kỷ XIX.
Tuy giữ được vị thế độc lập, nhưng không có nghĩa Thái Lan không bị mất mát gì cho các nước thực dân châu Âu. Nước này đã phải nhân nhượng nhiều quyền lợi và phải cắt lãnh thổ cho Anh và Pháp. Năm 1888 và 1893, Thái Lan phải ký hiệp ước trao một số vùng đất phía đông cho Campuchia (thuộc quyền cai trị của Pháp). Năm 1904 và 1907 phải tiếp tục cắt đất, tổng cộng hơn 20.000 km² cho Pháp. Năm 1909 phải cắt nhiều vùng đất rộng lớn ở phía Bắc cho Anh. Năm 1909, lại phải cắt vùng đất trên 40.000 km² tại bán đảo Malacca cho Anh[50]. Tổng cộng, trong 50 năm, Thái Lan đã bị mất đi 352.877 km² lãnh thổ[51], những vùng này ngày nay thuộc về Campuchia, Myanmar và Malaysia, coi như là bị mất hẳn. Lãnh thổ Thái Lan ngày nay chỉ còn rộng bằng 60% so với trước năm 1867 (514.000 km² so với 867.000 km²). Nhiều người Thái coi đây là sự sỉ nhục của phương Tây đối với quốc gia của họ, nhưng việc lo sợ một cuộc chiến tranh khiến chính phủ Thái Lan phải chấp nhận sự mất mát lãnh thổ đất nước[52].
Chế độ quân chủ lập hiến
Trước năm 1932, Thái Lan theo chế độ quân chủ chuyên chế. Sau cuộc cách mạng tư sản năm 1932 do một nhóm sĩ quan trẻ lãnh đạo, Thái Lan chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến, đồng thời đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Ngày 05 tháng 12 năm 1932 vua Prachadhipok (Rama VII) đã thông qua bản hiến pháp đầu tiên của Thái Lan. Hơn 60 năm qua Thái Lan đã thay đổi 16 hiến pháp (nhiều lần đảo chính), nhưng Hiến pháp 1932 vẫn được coi là cơ sở. Cuối cùng, vào thập niên 1980, Thái Lan chuyển hướng sang con đường nghị viện nhưng vẫn theo hướng tư bản chủ nghĩa nhằm phát triển kinh tế.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Thái Lan là đồng minh lỏng lẻo của Nhật Bản, cho Nhật đi qua đất Thái tiến đánh Malaysia, Myanmar. Lợi dụng thế suy yếu của nước Pháp (bị Đức quốc xã xâm chiếm) và sức mạnh hải quân khá hiện đại Thái Lan đã gây chiến với Pháp để tranh giành lãnh thổ Đông Dương. Trong khi các cuộc biểu tình thể hiện chủ nghĩa dân tộc và các cuộc mít tinh chống Pháp được tổ chức tại Bangkok, các cuộc giao tranh nhỏ lẻ diễn ra ở dọc biên giới sông Mekong. Sau khi nước Pháp thất thủ năm 1940, thiếu tướng Plaek Pibulsonggram (thường được biết đến là "Phibun"), thủ tướng Thái Lan, quyết định rằng việc thua trận của nước Pháp đem đến cho người Thái một cơ hội chưa từng có để giành lại những vùng đất đai mà họ đã mất dưới triều vua Chulalongkorn.[53] Chiến tranh Pháp-Thái, Lực lượng của Pháp ở Đông Dương bao gồm một đội quân xấp xỉ 50.000 lính. Khuyết điểm dễ thấy của quân Pháp là thiếu xe thiết giáp: chỉ có 20 xe tăng đã lỗi thời để chống lại gần 100 xe bọc thép của Lục quân Hoàng gia Thái Lan. Không quân Hoàng gia Thái Lan đã tiến hành các vụ ném bom ban ngày ở Vientiane, Phnom Penh, Sisophon và Battambang.[54] Người Pháp đã trả đũa bằng chính chiếc máy bay của họ, nhưng thiệt hại gây cho đối phương là ít hơn. Những hoạt động của Không quân Thái Lan, đặc biệt trong việc ném bom bổ nhào đã được Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux nhận xét một cách miễn cưỡng rằng những chiếc phi cơ Thái Lan dường như được lái bởi những phi công dày dạn kinh nghiệm trận mạc.[55] Sau khi sự suy yếu của quân đội phát xít Nhật vào cuối thế chiến, một nhóm quân đội Thái Lan làm đảo chính vào ngày 1 tháng 8 năm 1944, lật đổ chính phủ thân Nhật và ngay lập tức chuyển nước Thái từ một đồng minh lỏng lẻo của Nhật trong một đêm trở thành đồng minh của Mỹ và tiếp tục giữ được độc lập và hòa bình.
Sau thế chiến, Thái Lan bị đối xử như một quốc gia đối địch bởi Anh và Pháp, mặc dù Mỹ đã can thiệp để giảm nhẹ các điều khoản trừng phạt Thái Lan. Thái Lan không bị lực lượng Đồng Minh chiếm đóng, nhưng phải trả lại các lãnh thổ mà Nhật đã chiếm trong thế chiến 2 cho Anh và Pháp[52]. Thời kỳ hậu chiến cũng là thời kỳ Thái Lan thắt chặt quan hệ với Hoa Kỳ, như để bảo trợ Hoàng gia Thái Lan khỏi nguy cơ chủ nghĩa cộng sản lan truyền từ các quốc gia lân bang.
Thái Lan có tham gia vào chiến tranh Việt Nam[56], họ đóng vai trò hàng đầu trong số các nước đồng minh của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Thái Lan là nhà cung cấp số quân viễn chinh lớn thứ ba cho Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, cũng vì lo sợ sự lan truyền của chủ nghĩa Cộng sản ngay tại đất nước mình. Thái Lan đã cử 40.000 binh tham chiến, với con số hơn 351 binh lính tử trận đã được ghi nhận.[57] Tinh thần quân lính Thái Lan khi đó nói chung khá cao, họ tự hào về vai trò là "những người bảo vệ Hoàng gia Thái Lan khỏi chủ nghĩa cộng sản" và là Phật tử. Các lực lượng Thái Lan thường được các đồng minh Mỹ tôn trọng và gây ra cho các đối thủ Việt Nam của họ nhiều tổn thất[58][59][60]
Lực lượng du kích ủng hộ chủ nghĩa cộng sản ở Thái Lan hoạt động tích cực trong khoảng thập niên 1960 cho tới năm 1987 nhưng chưa bao giờ là một mối đe dọa nghiêm trọng cho chính quyền, tại thời kỳ đỉnh điểm họ đã có đến 12 ngàn du kích quân trong hàng ngũ. Kể từ sau năm 1979, khi quân Khmer Đỏ bị Việt Nam đánh bại tại Campuchia, Thái Lan đã cho phép tàn quân Khmer Đỏ đóng căn cứ bên trong lãnh thổ của mình. Việc này đã dẫn đến một số cuộc giao chiến tại khu vực biên giới giữa quân đội Thái Lan và Việt Nam, cho tới khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia vào năm 1989.
Lịch sử đương đại
Gần đây, Thái Lan trở thành một thành viên tích cực trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đặc biệt là sau khi chế độ dân chủ được tái lập sau năm 1992.
Năm 1997, Thái Lan trở thành tâm điểm của Khủng hoảng tài chính châu Á 1997. Đồng baht nhanh chóng sụt giá từ mức 25 baht đổi 1 đô la xuống mức 56 baht đổi 1 đô la, thị trường chứng khoán sụt giảm 75%, kinh tế sụt giảm trên 10% trong giai đoạn 1997-1999. Kinh tế Thái Lan mất 6 năm tiếp theo để khôi phục, đến năm 2007, tỷ giá giữa đồng baht và đô la là 33:1. Tuy nhiên, kinh tế Thái Lan đã không còn tăng trưởng nhanh như trước nữa, GDP đầu người của nước này chỉ tăng trung bình 2% mỗi năm trong giai đoạn 2007-2019. Đến năm 2020, Đại dịch Covid-19 xảy ra khiến kinh tế Thái Lan bị sụt giảm tới 7,5 - 8%, cho tới năm 2022 nước này vẫn chưa hồi phục mức GDP năm 2019.
Đã có một số đụng độ quân sự giữa Thái Lan và Campuchia vào giai đoạn 2010-2012, khi cả hai nước tranh chấp chủ quyền tại vùng quanh đền Preah Vihear của người Khmer, ngôi đền được Tòa án Quốc tế vì Công lý (International Court of Justice) vào năm 1962 tuyên bố thuộc về Campuchia.[52] Xung đột kết thúc khi tòa án quốc tế tiếp tục phán quyết ngôi đền thuộc về Campuchia.
Lịch được sử dụng chính thức tại Thái Lan là Phật lịch, một loại lịch của người phương Đông, sớm hơn Tây lịch 543 năm. Năm 2018 thì là năm thứ 2561 Phật lịch tại Thái Lan.
Năm 2020, lần đầu tiên kể từ năm 1931, nhiều người Thái Lan đã biểu tình công khai phản đối Hoàng gia, kêu gọi hạn chế quyền lực của quốc vương. Người biểu tình tuyên bố đất nước thuộc về nhân dân chứ không phải vua Rama X, họ công khai thách thức hoàng gia Thái Lan. Ở Thái Lan, bất kỳ người nào xúc phạm hoàng gia, đặc biệt là quốc vương, là một trọng tội. Nhưng những người biểu tình đã ngày càng liều lĩnh hơn, có người đã hô "Đả đảo phong kiến, nhân dân muôn năm"[61]
Hội đồng nghiên cứu Quốc gia phân chia Thái Lan thành 6 vùng địa lý, dựa trên các đặc điểm tự nhiên bao gồm địa hình và dòng chảy, cũng như mô hình văn hóa của con người. Đó là: Khu vực phía Bắc, đông Bắc, miền Trung, miền phía Đông, miền Tây và miền Nam. Mặc dù Bangkok về mặt địa lý là một phần của đồng bằng trung tâm, vì là thủ đô và thành phố lớn nhất, khu vực này có thể coi là khía cạnh khác, một khu vực riêng biệt. Mỗi vùng trong 6 vùng địa lý khác so với vùng khác ở dân số, các nguồn lực cơ bản, đặc điểm tự nhiên và mức độ phát triển kinh tế xã hội. Sự đa dạng của các vùng thực tế là thuộc tính nổi bật trong địa chất Thái Lan.
Địa hình
Với diện tích 512.302 km² (tương đương diện tích Việt Nam cộng với Lào), Thái Lan xếp thứ 50 trên thế giới về diện tích, rộng thứ ba tại Đông Nam Á, sau Indonesia và Myanmar.
Thái Lan là mái nhà chung của một số vùng địa lý khác nhau, tương ứng với các vùng kinh tế. Đặc điểm nổi bật của địa hình Thái Lan là núi cao, một đồng bằng trung tâm và một vùng cao nguyên. Núi chiếm phần lớn phía bắc Thái và trải rộng dọc theo biên giới Myanmar qua eo Kra và bán đảo Mã Lai. Đồng bằng trung tâm là một vùng đất thấp bồi bởi sông Chao Phraya và các chi lưu, đó hệ thống sông chính của nước này, chảy vào đồng bằng ở đầu vịnh Bangkok. Hệ thống sông Chao Phraya chiếm khoảng một phần ba lãnh thổ quốc gia. Ở phía đông bắc của đất nước là cao nguyên Khorat, một khu vực nhấp nhô nhẹ với đồi thấp và hồ nông, cung nước vào sông Mekong qua sông Mun. Hệ thống sông Mê đổ vào Biển Đông bao gồm một loạt các kênh và đập.
Cùng nhau, các hệ thống sông Chao Phraya và Mê Kông duy trì nền nông nghiệp Thái Lan qua việc hỗ trợ trồng lúa và cung cấp đường thủy cho việc vận chuyển hàng hóa, người. Ngược lại, các đặc điểm tự nhiên phân biệt của bán đảo Thái Lan là đường bờ biển dài, các hòn đảo ngoài khơi và đầm lầy ngập mặn giảm đi.
Khí hậu
Khí hậu Thái Lan chịu ảnh hưởng bởi gió mùa có đặc điểm theo mùa (gió mùa tây nam và gió mùa đông bắc).[62] Gió mùa tây nam bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9 được đặc trưng bởi chuyển động của không khí ấm ẩm từ Ấn Độ Dương tới Thái Lan, gây ra mưa dồi dào nhất đất nước.:2 Gió mùa đông bắc bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 2 mang lại không khí lạnh và khô nhất Thái Lan từ Trung Quốc. Ở miền nam Thái Lan, gió mùa đông bắc mang lại thời tiết ấm áp và mưa nhiều trên bờ biển phía đông. Phần lớn Thái Lan có khí hậu "nhiệt đới ẩm và khô hoặc khí hậu thảo nguyên" loại (khí hậu xavan).[63] về Phía nam và đầu phía đông của miền đông có khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Thái lan đã 3 mùa.:2 Mùa mưa (giữa tháng 4 - giữa tháng 9) chiếm ưu thế trên phần lớn đất nước. Mùa này đặc trưng bởi mưa dồi dào vào tháng 8 và 9 là thời kì ẩm ướt nhất trong năm.:2 Đôi khi có thể dẫn đến lũ lụt.:4 Ngoài mưa gây ra bởi gió mùa tây nam, những dải hội tụ (ITCZ) và xoáy thuận nhiệt đới cũng góp phần gây mưa trong mùa mưa. Tuy nhiên, những đợt khô thường xảy ra trong khoảng 1 - 2 tuần kể từ đầu tháng 6 - 7. Đó là do sự chuyển động về phía bắc của dải hội tụ đến miền nam Trung Quốc. Mùa Đông bắt đầu từ đầu tháng 10 đến giữa tháng 3. Phần lớn Thái Lan trải qua thời tiết khô trong mùa này với nhiệt độ nhẹ. Ngoại trừ phía nam Thái Lan, nơi có lượng mưa lớn, đặc biệt là vào tháng 10 - 11. Hai tháng mùa hè từ giữa tháng 3 đến giữa tháng 4 và đặc trưng là thời tiết ấm hơn.
Do đặc điểm thiên nhiên nội địa và vĩ độ, miền bắc, đông bắc, trung và đông của Thái Lan trải qua một thời gian dài thời tiết ấm áp. Trong thời gian nóng nhất trong năm (tháng 3 - tháng 4), nhiệt độ thường đạt tới 40 °C (104 °F) trở lên, ngoại trừ vùng duyên hải, nơi gió biển có nhiệt độ dịu buổi chiều. Ngược lại, sự bùng phát không khí lạnh từ Trung Quốc có thể mang lại nhiệt độ lạnh hơn trong một số trường hợp (đặc biệt là ở miền bắc và đông) gần hoặc dưới 0 °C (32 °F). Nam Thái lan đặc trưng bởi thời tiết ôn hòa quanh năm với nhiệt độ ít thay đổi ban ngày và mùa hè thay đổi do ảnh hưởng của biển.
Hầu hết quốc gia có lượng mưa hàng năm là 1.300 đến 1.700 mm (51 đến 67 in).
Động thực vật
Thái Lan là quốc gia có nhiều loài động vật quý hiếm trên thế giới sinh sống, nổi bật nhất là hổ, voi và bò tót khổng lồ. Rất nhiều loài đang đứng trước hiểm họa diệt chủng do nạn săn trộm và phá rừng.
Voi là biểu tượng quốc gia của Thái Lan. Hiện nay số lượng voi suy giảm nghiêm trọng do nạn săn trộm voi để lấy ngà voi, và gần đây là để lấy thịt voi[64]. Voi con thường bị bắt để sử dụng trong các điểm tham quan du lịch, mặc dù việc sử dụng chúng đã giảm kể từ khi chính phủ cấm khai thác vào năm 1989. Hiện nay số lượng cá thể voi sống trong điều kiện bị giam cầm thậm chí còn lớn hơn cả số voi còn tồn tại ngoài tự nhiên, và các nhà hoạt động môi trường cáo buộc rằng những con voi sống trong điều kiện nuôi nhốt thường bị ngược đãi[65].
Thái Lan được chia làm 76 tỉnh (จังหวัด changwat), trong đó có 2 thành phố trực thuộc trung ương: Bangkok và Pattaya. Do có phân cấp hành chính tương đương cấp tỉnh, Bangkok thường được xem là tỉnh thứ 76 của Thái Lan.
Các tỉnh được chia thành các huyện (อำเภอ amphoe) hoặc quận (เขต khet). Năm 2017, Thái Lan có tổng cộng 878 huyện và 50 quận (thuộc Bangkok)[66]. Một số phần của các tỉnh giáp ranh với Bangkok (như Nonthaburi, Pathum Thani, Samut Prakan, Nakhon Pathom và Samut Sakhon) thường được gộp chung và được biết đến như Vùng đô thị Bangkok. Các huyện được chia thành các xã (ตำบล tambon), trong khi các quận được chia thành các phường (ท้องที่ thongthi). Các xã được chia thành các thôn (หมู่บ้าน muban).
Các đô thị của Thái Lan gồm ba cấp, thành phố (เทศบาลนคร Thesaban nakhon), thị xã (เทศบาลเมือง Thesaban mueang) và thị trấn (เทศบาลตำบล Thesaban tambon). Nhiều thành phố và thị xã đồng thời là tỉnh lỵ. Tuy nhiên một tỉnh có thể có tới hai thành phố và vài thị xã.
Danh sách các tỉnh Thái Lan theo Vùng
Miền Bắc Thái Lan | Đông Bắc Thái Lan | Miền Trung Thái Lan | Bản đồ các tỉnh Thái Lan có thể click để xem |
Miền Đông Thái Lan | Miền Nam Thái Lan | ||