Trần Tích Liên
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trần Tích Liên (tiếng Trung: 陈锡联; bính âm: Chén Xīlián; ngày 4 tháng 1 năm 1915 – ngày 10 tháng 6 năm 1999) là sĩ quan quân đội và chính khách, thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Là nhân vật theo tư tưởng Mao Trạch Đông nổi bật từng nắm giữ những chức vụ rất quan trọng cả trong lĩnh vực quân sự và chính trị.[1]
Trần Tích Liên | |
---|---|
Tên khai sinh | Trần Tích Liên |
Sinh | (1915-01-01)1 tháng 1, 1915 Hồng An, Hồ Bắc, Trung Hoa Dân Quốc |
Mất | 10 tháng 6 năm 1999(1999-06-10) (84 tuổi) Bắc Kinh, Trung Quốc |
Thuộc | Trung Quốc |
Quân chủng | Quân Giải phóng Nhân dân |
Quân hàm | Thượng tướng |
Chỉ huy | Sư đoàn 129 Bát Lộ quân Lữ đoàn 385 Quân khu Thẩm Dương Quân khu Bắc Kinh |
Tham chiến | Nội chiến Trung Quốc Chiến tranh Trung-Nhật Xung đột biên giới Trung-Xô |
Khen thưởng | Huân chương Bát Nhất (Hạng Nhất) Huân chương Độc lập Tự do (Hạng Nhất) Huân chương Giải phóng (Hạng Nhất) |
Vợ/chồng | Lật Cách (cưới 1942–1948) Vương Tuyền Mai (cưới 1949–1999) |
Con cái | 3 (hai trai và một gái) |
Trần Tích Liên đã tham dự nhiều trận đánh trong chiến tranh Trung-Nhật và Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ hai, ông giữ chức Thị trưởng kiêm Bí thư thứ nhất Thành ủy Trùng Khánh từ năm 1949 đến năm 1950 và Tư lệnh Pháo binh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc từ năm 1950 đến năm 1959. Sau đó, ông nắm quyền chỉ huy Quân khu Thẩm Dương (1959–1973) và đặc biệt là Quân khu Bắc Kinh (1973–1980). Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Bộ Chính trị (1969–1980) và Phó Thủ tướng Quốc vụ viện (1975–1980).[2]
Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, ông là một trong những người ủng hộ quan trọng nhất của Hoa Quốc Phong, cùng với Uông Đông Hưng và Lý Tiên Niệm.[3] Kể từ lúc Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền thì do ông thuộc phe cánh Hoa Quốc Phong nên bị mất chức nhưng vẫn được phép nghỉ hưu sống bình yên cho đến cuối đời.