Bùi Thị Mè
From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Bùi Thị Mè (26 tháng 6 năm 1921 – 10 tháng 3 năm 2014) là một chính khách Việt Nam, một Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bà từng giữ chức vụ Ủy viên Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Tây Nam Bộ từ năm 1961 đến năm 1964, Ủy ban Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1976, Thứ trưởng Bộ Y tế, Thương binh và Xã hội của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam từ năm 1969 đến năm 1976, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ năm 1974 đến năm 1979, Phó Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1977 đến năm 1979.
Remove ads
Tiểu sử
Bùi Thị Mè (thường gọi là Năm Mè) sinh ngày 26 tháng 6 năm 1921, quê ở xã Quới An, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Quới An, tỉnh Vĩnh Long), song trưởng thành và hoạt động nghề giáo tại tỉnh Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long). Từ nhỏ, bà Năm Mè đã được nuôi ăn học chu đáo. Vốn thông minh, bà học nhanh qua bậc tiểu học rồi lên Vĩnh Long tiếp tục học Trường Nữ học đường Vĩnh Long đậu nội trú và sau 4 năm thi đỗ bằng thành chung lên học Trường Nữ trung học Gia Long (nay là Trường Trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai, phường Xuân Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh).[1][2]
Năm 1946, khi thực dân Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, vợ chồng bà với danh nghĩa là những thương gia, đã có những hoạt động hợp pháp để ủng hộ kinh tế kháng chiến. Đầu tiên, bà bắt tay vào mở một trường trung học tư thục ở xã Long Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh (nay là phường Long Đức, tỉnh Vĩnh Long), do má làm hiệu trưởng. Đó là năm 1950, khi bà ở tuổi 29. Bề ngoài là một trường trung học để tránh con mắt dò xét của mật thám Pháp, nhưng bên trong trường là một cơ sở hợp pháp của Tỉnh ủy Trà Vinh.[3]
Remove ads
Sự nghiệp chính trị
1954 - 1975
Năm 1955, Tỉnh ủy Trà Vinh bố trí cô Hiệu trưởng Bùi Thị Mè làm Tổng thư ký Hội Phụ nữ của tỉnh và là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Chẩn tế - Xã hội của tỉnh Trà Vinh, một tổ chức hội yêu nước sớm nhất tại Nam Bộ.[4]
Từ những năm 1950 - 1957, bà đã hoạt động hợp pháp dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Trà Vinh. Khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa nghi ngờ cơ sở của bà tiếp tay cho cộng sản nên ra lệnh đóng cửa trường với lý do hiệu trưởng thân “cộng”, toàn Ban giáo sư thân “cộng”, dạy đường lối chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Bằng sự khôn khéo, thông minh, má về ngay Sài Gòn tìm gặp được Nguyễn Dương Đôn - Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục và Thanh niên Việt Nam Cộng hòa để chất vấn, tố cáo chính quyền địa phương, tạo một thế hợp pháp trong hoạt động bán công khai. Từ đó, bà tiếp tục dạy học và hoạt động công khai trong giới trí thức yêu nước ngay tại Sài Gòn.[5]
Tháng 5 năm 1961, tại Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Tây Nam Bộ, được Tỉnh ủy Trà Vinh giới thiệu, má Năm vào công tác ở Khu ủy Tây Nam Bộ, được đề cử là Ủy viên Ủy ban Dân tộc giải phóng miền Nam khu Tây Nam Bộ.[6]
Năm 1964, bà được Trung ương Cục miền Nam Việt Nam rút về tham gia công tác tuyên truyền đối ngoại tại Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam Việt Nam. Lúc này, tại Trung ương Cục, bà Năm Mè là nữ nhân sĩ thành thạo tiếng Pháp nên được tổ chức bố trí sang phụ trách Ban Phụ vận Trung ương Cục miền Nam Việt Nam.[7]
Năm 1965, tại Đại hội Phụ nữ Giải phóng miền Nam (ngày 8 tháng 3 năm 1965), má được bầu vào Ban Chấp hành Hội Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng thời được phân công kiêm nhiệm vụ Phó chủ tịch Hội Nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam.[8]
Trước tình hình phát triển của cách mạng miền Nam Việt Nam, với sự chỉ đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam -Trung ương Cục miền Nam Việt Nam, từ ngày 6 đến 8 tháng 6 năm 1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam được tổ chức, với sự có mặt của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam cùng các lực lượng yêu nước khác cử Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn của Chính phủ. Bà Bùi Thị Mè được phân công giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Y tế, Xã hội và Thương binh.[9][10]
Năm 1974, theo yêu cầu của Đảng, của cách mạng cần mở rộng công tác tuyên truyền đối ngoại về cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước, bà Năm Mè được Trung ương Cục miền Nam Việt Nam cử ra Hà Nội dự Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ VI (từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 3 năm 1974). Tại đại hội, bà Bùi Thị Mè được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Tháng 1/1974, mẹ được kết nạp vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam.[11]
Sau năm 1975
Thực hiện chủ trương thống nhất các đoàn thể nhân dân và Mặt trận 2 miền, từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 6 năm 1976, Hội nghị hợp nhất Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hội nghị thống nhất hợp nhất tổ chức, lấy tên là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Bà Bùi Thị Mè tiếp tục được giữ chức vụ Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.[12]
Sau ngày nước nhà thống nhất, theo yêu cầu của thành phố, bà Năm Mè được phân công đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Thành phố Hồ Chí Minh (từ ngày 15 tháng 1 năm 1977) để chăm lo mạng lưới chữ thập đỏ, hỗ trợ cho công tác thương binh - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh.[13]
Tháng 10 năm 1979, bà được Nhà nước cho nghỉ hưu tại Thành phố Hồ Chí Minh. Những năm được nghỉ hưu, dù tuổi cao nhưng nhà giáo Bùi Thị Mè vẫn luôn tham gia nhiều hoạt động nhân đạo và tình nghĩa với quê hương và các nhà giáo Thành phố Hồ Chí Minh.[14]
Vào 20 giờ ngày 10 tháng 3 năm 2014, bà Bùi Thị Mè đã từ giã cõi đời ở tuổi 93 tại nhà riêng số 3, đường Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là phường Tân Định, Thành phố Hồ Chí Minh).[15][16][17][18][19]
Remove ads
Gia đình
Chồng bà là ông Nguyễn Văn Nhơn, sinh năm 1916, là một giáo chức ở xã An Thạnh – Mỏ Cày – Bến Tre. Vợ chồng bà có 6 người con, trong đó có ba người con là liệt sĩ hy sinh trong đợt Tổng tiến công Mậu Thân 1968, đó là liệt sĩ Nguyễn Huỳnh Sanh, Nguyễn Huỳnh Tài, Nguyễn Huỳnh Đại và người con trai Nguyễn Huỳnh Đạo là thương binh bị thương trên chiến trường T3 - Tây Nam Bộ.[20]
Vinh danh
Bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng ngày 17 tháng 12 năm 1994 cùng nhiều Huân, Huy chương cao quý:[21]
- Huân chương Độc lập hạng 3.
- Huân chương Giải phóng hạng 1 và 2.
- Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng 1.
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng 1.
- Huân chương Quyết thắng hạng 1.
- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.
- Huy hiệu Thành phố Hồ Chí Minh.
- Huy chương Vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Remove ads
Chú thích
Tham khảo
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads