Brighton & Hove Albion F.C.

From Wikipedia, the free encyclopedia

Brighton & Hove Albion F.C.
Remove ads

Câu lạc bộ bóng đá Brighton & Hove Albion (tiếng Anh: Brighton & Hove Albion Football Club /ˈbrtən ən ˈhv/) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại thành phố Brighton and Hove, East Sussex, Anh, thường được gọi đơn giản là Brighton. Câu lạc bộ thi đấu tại Ngoại hạng Anh, giải đấu cao nhất trong hệ thống các giải bóng đá Anh, các trận đấu của họ diễn ra trên sân vận động 30.750 chỗ ngồi Falmer, còn được gọi theo tên nhà tài trợ là Sân vận động American Express Community, hay ngắn gọn là Amex.

Thông tin Nhanh Tên đầy đủ, Biệt danh ...

Đội có biệt danh là "Seagulls" hay "Albion". Đội có truyền thống thi đấu với màu áo xanh với sọc trắng, trong những năm 1970 đổi sang toàn trắng và trở lại màu truyền thống trong giai đoạn thành công nhất lịch sử những năm 1980.[2] Crystal Palace được coi là đối thủ chính của đội, mặc dù sân bóng của hai đội cách nhau 40 dặm.[3][4]

Được thành lập năm 1901, Brighton thi đấu những mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên ở Southern League trước khi được chọn để thi đấu tại Football League năm 1920. Câu lạc bộ thi đấu đầy hứa hẹn trong giai đoạn 1979 tới 1983 khi họ thi đấu tại First Division vào tới Chung kết Cúp FA 1983, để thua Manchester United sau trận đá lại.[5] Họ sau đó xuống hạng vào cuối mùa.

Do sự quản lý kém, Brighton suýt xuống hạng từ Football League xuống Conference trong năm 1997 và 1998. Ban giám đốc sau đó cứu Brighton khỏi nợ nần. Sau khi lên hạng liên tiếp họ trở lại hạng Nhất năm 2002, và kể từ đó họ thi đấu ở hạng nhất và hạng nhì đến mùa 2016–17. Họ giành quyền lên Premier League lần đầu tiên trong lịch sử vào ngày 17 tháng 4 năm 2017, kết thúc 34 năm vắng bóng tại giải đấu cao nhất của Brighton.

Remove ads

Lịch sử

Tổng quan

Mùa 2017–18, câu lạc bộ thi đấu tại Ngoại hạng Anh, giải đấu cao nhất trong hệ thống các giải bóng đá Anh, các trận đấu của họ diễn ra trên sân vận động 30,750 chỗ ngồi sân Falmer, còn được gọi theo tên nhà tài trợ là Sân vận động American Express Community, hay ngắn gọn là Amex. Họ sẽ có lần đầu ra mắt tại Ngoại hạng Anh vào mùa giải 2017–18 sau khi giành vé lên hạng trực tiếp từ EFL Championship.

Đội có biệt danh là "Seagulls" hay "Albion". Đội có truyền thống thi đấu với màu áo xanh với sọc trắng, trong những năm 1970 đổi sang toàn trắng và trở lại màu truyền thống trong giai đoạn thành công nhất lịch sử những năm 1980. Crystal Palace được coi là đối thủ chính của đội, mặc dù sân bóng của hai đội cách nhau 40 dặm.

Được thành lập năm 1901, Brighton thi đấu những mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên ở Southern League trước khi được chọn để thi đấu tại Football League năm 1920. Câu lạc bộ có giai đoạn thi đấu đầy hứa hẹn trong giai đoạn 1979 tới 1983 khi họ thi đấu tại First Division và vào tới Chung kết Cúp FA 1983, để thua Manchester United sau trận đá lại. Họ sau đó xuống hạng vào cuối mùa.

Do sự quản lý kém Brighton suýt xuống hạng từ Football League xuống Conference trong năm 1997 và 1998. Ban giám đốc sau đó cứu Brighton khỏi nợ nần, sau khi lên hạng liên tiếp họ trở lại hạng Nhất năm 2002, và kể từ đó họ thi đấu ở hạng nhất và hạng nhì kể từ đó đến mùa 2016–17, nơi họ giành quyền lên Premier League lần đầu tiên trong lịch sử ngày 17 tháng 4 năm 2017. Kết thúc 34 năm vắng bóng tại giải đấu cao nhất của Brighton.

Sau khi thăng hạng Brighton & Hove Albion đã trải qua 4 mùa giải liên tiếp từ 2017 đến 2021 chiến đấu trụ hạng. Từ mùa giải 2021 đến hết mùa giải 2022-2023, Brighton & Hove Albion đã có những tiến bộ và thay đổi trong lối chơi qua đó đã có những thứ hạng cao hơn qua từng mùa giải, và ở mùa giải 2022-2023 Brighton & Hove Albion kết thúc với vị trí thứ 6 với lối chơi tấn công đẹp mắt giành 18 chiến thắng hòa 8 và thua 12.

Remove ads

Lịch sử hình thành và phát triển của đội bóng đá Brighton

Brighton là đội bóng có lịch sử phát triển là hơn 100 năm trong nền bóng đá nước Anh. Họ trải qua nhiều những thăng trầm, biến cố và đến nay cũng đã trở thành 1 đội bóng chuyên nghiệp.

Giai đoạn thành lập

Brighton được thành lập vào năm 1901 với tên gọi đầy đủ nhất là Brighton & Hove Albion. Ngay từ những ngày đầu thành lập cho đến năm 2000, Brighton thi đấu ở nhiều giải đấu khá hấp dẫn và quan trọng. Trong đó có nhiều giải đấu mà đội bóng đã gặt hái được thành công vang dội cho mình. Nhờ vậy mà tên tuổi của Clb bóng đá Brighton được đẩy cao trên bảng xếp hạng.

Giai đoạn cuối thế kỷ 20

Brighton với hơn 100 năm hình thành và phát triển

Đây là thời điểm mà câu lạc bộ Brighton gặp những vấn đề trục trặc về nhân sự và tài chính. Tuy nhiên những khủng hoảng này chỉ diễn ra trong 1 thời gian ngắn đến năm 1997. Brighton đã được đội ngũ ban giám đốc của đội bóng kéo ra khỏi nguy cơ bị tan rã.

Giai đoạn 2001 – 2002

Đến giai đoạn này, Brighton đang trên đà lấy lại phong độ cho đội bóng của mình. Cụ thể là họ đã vươn mình lên vị trí thứ 2 trên BXH. Đặc biệt  năm 2011, Brighton chính thức có được Falmer là sân nhà thi đấu của mình.

Đến năm 2016 – 2017, Brighton đã nhận được tấm vé để tham dự giải đấu Ngoại hạng anh lớn nhất thế giới. Đây cũng chính là mùa giải đầu tiên mà Brighton đứng được ở vị trí thứ 2 ở giải hạng nhất để được thăng hạng cho mình.

Giai đoạn 2017 đến nay

Trong 5 năm trở lại đây, Brighton liên tục thi đấu ở đấu trường Ngoại hạng anh. Đến nay tên tuổi của đội bóng là điều mà bất cứ fan hâm mộ bóng đá nào cũng biết đến. Đây chính là 1 trong những thành công mà Brighton có được sau nhiều năm hoạt động, thi đấu và nỗ lực của 1 thế hệ các cầu thủ.

Sân vận động: The American Express Community Stadium

Kình địch

Kết quả các giải đấu châu Âu

Cầu thủ

Đội hình hiện tại

Tính đến 1 tháng 2 năm 2024[6]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Thêm thông tin Số, VT ...

Cho mượn

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Thêm thông tin Số, VT ...
Remove ads

Huấn luyện viên

  • Anh John Jackson 1901–1910
  • Anh Frank Scott-Walford 1905–1908
  • Anh Jack Robson 1908–1914
  • Ireland Charlie Webb 1919–1947
  • Anh Tommy Cook 1947
  • Anh Don Welsh 1947–1951
  • Anh Billy Lane 1951–1961
  • Anh George Curtis 1961–1963
  • Scotland Archie Macaulay 1963–1968
  • Anh Freddie Goodwin 1968–1970
  • Cộng hòa Ireland Pat Saward 1970–1973
  • Anh Brian Clough 1973–1974
  • Anh Peter T. Taylor 1974–1976
  • Anh Alan Mullery 1976–1981
  • Anh Mike Bailey 1981–1982
  • Anh Jimmy Melia 1982–1983
  • Anh Chris Cattlin 1983–1986
  • Anh Alan Mullery 1986–1987
  • Anh Barry Lloyd 1987–1993
  • Cộng hòa Ireland Liam Brady 1993–1995
  • Anh Jimmy Case 1995–1996
  • Anh Steve Gritt 1996–1998
  • Anh Brian Horton 1998–1999
  • Anh Jeff Wood 1999
  • Anh Micky Adams 1999–2001
  • Anh Peter J. Taylor 2001–2002
  • Anh Martin Hinshelwood 2002
  • Anh Steve Coppell 2002–2003
  • Scotland Mark McGhee 2003–2006
  • Anh Dean Wilkins 2006–2008
  • Anh Micky Adams 2008–2009
  • Anh Russell Slade 2009
  • Uruguay Gus Poyet 2009–2013
  • Tây Ban Nha Óscar García 2013–2014
  • Phần Lan Sami Hyypiä 2014
  • Cộng hòa Ireland Chris Hughton 2014–2019
  • Anh Graham Potter 2019–2022
  • Ý Roberto De Zerbi 2022–
Remove ads

Ban huấn luyện hiện tại

[7]

Thêm thông tin Vị trí, Tên ...

Ban lãnh đạo

Thêm thông tin Chức vụ, Tên ...

Nguồn: Who's Who

Danh hiệu

Thumb
Vị trí của Brighton & Hove Albion

Quốc nội

League

Vô địch (3) 1957–58, 2001–02, 2010–11
Vô địch (2) 1964–65, 2000–01
  • Southern Football League
Vô địch (1) 1909–10

Cup

Vô địch (1): 1910
  • The Sussex Royal Ulster Rifles Charity Cup[8]
Vô địch: (2) 1959–60, 1960–61[note 1]
Remove ads

Trong phần lớn lịch sử của Brighton, họ đã thi đấu với áo sơ mi trắng xanh, thường có sọc, với sự kết hợp khác nhau giữa quần đùi và tất màu trắng và xanh lam,[9] mặc dù điều này đã thay đổi thành toàn màu trắng trong một thời gian ngắn vào những năm 1970 và một lần nữa thành màu xanh lam trong hầu hết các trận đấu của câu lạc bộ. câu thần chú thành công vào những năm 1980.[10]

Kể từ năm 2014, trang phục thi đấu của câu lạc bộ đã được sản xuất bởi Nike. Các nhà sản xuất trước đây bao gồm (1971–74, 1975–80), Admiral (1974–75, 1994–97), Umbro (1975–77), Adidas (1980–87), Spall (1987–89), Sports Express (1989–91), Ribero (1991–94), Superleague (1997–99), và Erreà (1999–2014). Nhà tài trợ áo đấu hiện tại của họ là American Express. Các nhà tài trợ trước đây bao gồm British Caledonian Airways (1980–83), Phoenix Brewery (1983–86), NOBO (1986–91), TSB Bank (1991–93), Sandtex (1993–98), Donatello (1998–99), Skint Records (1999–2008), IT First (2008–11), và BrightonandHoveJobs.com (2011–13).

Tham khảo

Liên kết ngoài

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads