Câu chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na
From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Câu chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na là truyện thứ 12 trong số 20 truyện trong sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Truyện được viết bằng Hán văn, tên trong nguyên tác là "Na sơn tiều đối lục" 那山樵對錄,[1] Trúc Khê dịch là "Câu chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na". Núi Na tục gọi là Nưa (hay Nứa), tên chữ là Na Sơn, đỉnh cao nhất 538 m, trên có một ngôi chùa cổ tên Am Tiên. Xưa, núi Na thuộc làng Cổ Định, nay thuộc xã Tế Thắng, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
Đây là truyện duy nhất được chọn đăng trong bộ Tư liệu tham khảo Văn học Việt Nam (Tập 2) do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1979, khi giới thiệu về tác gia này.
Remove ads
Giới thiệu
Truyện được viết bằng Hán văn theo thể loại tản văn xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối truyện có lời bình của tác giả. Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán (người cùng thời) viết năm 1547, thì Nguyễn Dữ làm ra sách Truyền kỳ mạn lục trong khoảng thời gian ông đến ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh. Như nhiều truyện khác có trong tập, ở Truyện người tiều phu ở núi Na, tác giả cũng đã mượn một nhân vật có thật hay chỉ có trong huyền thoại, rồi tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ...để tái tạo thành một thiên truyện mới.
Theo GS Nguyễn Đăng Thục, lão tiều núi Na, là một nhân vật có thật. Ông họ Trần, tên là Tu, hiệu Hoàng Mi, người đương thời gọi là cụ Tu Nứa, bởi gặp cuộc biến loạn đời Trần nên đến đó cất lều tranh ở ẩn.[2]
Trong bộ sách Góp phần nghiên cứu Văn hóa Việt Nam (Tập 2) do GS.TS Nguyễn Văn Huyên biên soạn, cũng có đoạn viết: Đi theo vết Từ Thức, một vài người thành công. Tựa như ông lão mang tên Tu Na (hoặc Khu Na). Ông tu hành đắc đạo dưới thời Xương Phù (1377-1388) đời nhà Trần, và đã lui về ẩn tại Na Sơn ở Thanh Hóa. Dưới thời nhà Lê, hình như có nhiều người cứ 10 hoặc 20 năm lại gặp ông ta.[3]
Remove ads
Nội dung sơ lược
"Na Sơn tiều đối lục" có cốt truyện khá đơn giản. Khởi đầu là một đoạn văn ngắn giới thiệu sơ lược cảnh núi Na cùng một lão tiều đang ẩn cư ở nơi đó. Kế tiếp là bài ca (21 câu dài ngắn khác nhau) mà Hồ Hán Thương nghe được từ miệng lão tiều, khi nhà vua cùng đoàn tùy tùng đi săn thú trên ngọn núi này. Ngay sau đó, viên quan hầu Trương Công được lệnh đi theo mời lại, nhưng đi một hồi thì không thấy bóng dáng lão tiều đâu cả, mà chỉ thấy một cái động sâu, phía trong có một cái am cỏ bên những khóm cây xanh tốt. Trong am, là một chiếc giường mây, trên giường để đàn sáo và chiếc gối dựa. Còn hai bên vách có đề hai bài ca, một bài là Thích ngủ (25 câu dài ngắn khác nhau), một bài là Thích cờ (23 câu dài ngắn khác nhau). Đến lúc ấy, viên quan mới bắt gặp lão tiều đang ngồi ngoài hiên đá, dạy con chim yển học nói, bên cạnh có mấy đứa nhỏ ngồi đánh cờ...
Kể từ đó cho đến hết truyện là những lời đối đáp của lão tiều với viên quan hầu (xem đoạn trích bên dưới). Theo Từ điển Văn học (bộ mới), thì đây là câu chuyện thể hiện quan niệm sống "lánh đục về trong" của kẻ sĩ lúc bấy giờ, trong số đó có tác giả.[4]
Remove ads
Điểm qua một vài nét chính
Theo GS. Nguyễn Đăng Thục, thì ba bài ca có trong truyện đều thuộc về loại văn chương lãng mạn của Đạo học, giàu tâm lý và nghệ thuật.
Bài thứ nhất bày tỏ cái lý tưởng sống ngoài vòng lễ giáo phép tắc của nhân quần xã hội đã đặt ra để trói buộc con người, coi rẻ tất cả giá trị nhân văn, hoàn toàn buông thả theo thiên nhiên, không lo nghĩ tính toán "được-mất-sống-chết". Bởi có cái tâm trạng vô tâm, quên mình vào thiên nhiên, không nghĩ việc đã qua, không mong việc sắp tới, không thắc mắc tính toán việc hiện tại nên:
- ...Ngẫm lại cổ kim bao đời khanh tướng,
- Rêu phủ bia tàn.
- Sao bằng ta: mặt trời đã cao ba thước,
- Giấc điệp hãy mơ màng.
Đấy là tâm hồn của nhà xử sĩ[5] núi Na (tức lão tiều), vừa đi vừa hát nghêu ngao, bài ra cảnh đối chiếu giữa hai hệ thống giá trị: "thiên nhiên với nhân văn, tự do và nghi lễ".
Đến hai bài sau (Thích ngủ và Thích cờ), đề trên vách am, thì bày tỏ hai phương diện mâu thuẫn biện chứng của thực tại Sống: "tĩnh" và "động". Thích ngủ, nghĩa là muốn yên ổn, thư thái tâm hồn, thích hợp với bản tính tự nhiên. Nhưng nhà xử sĩ Núi Na còn thích cờ nữa, vì thế sự chẳng khác chi cuộc cờ, biến hóa không thường như mây với gió. Đấy là phương diện động của thực tại. Theo đấy thì nhà xử sĩ trên có lý tưởng muốn thể hiện cả hai phương diện của một thực tại sống, cả "thể" lẫn "dụng", chứ không hẳn một mặt thiên lệch mà quên đời...[6]
Kế tiếp là cuộc đối đáp giữa nhà xử sĩ với quan hầu Trương Công. Qua đoạn văn dài này đã thể hiện rõ tư tưởng và thái độ của Nguyễn Dữ, đối với nhà Hồ...Tuy nhiên, những gì tác giả để cho miệng lão tiều phát ra (xem đoạn trích bên dưới) cùng lời tiên đoán cảnh diệt vong của triều đình ấy, đã cho thấy Nguyễn Dữ (tức lão tiều) không hẳn là người lánh đời, mà chỉ vì ông không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, đành quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời...[7]
Cuối cùng là phần lời bình, tác giả có ý giải thích sự táng bại của nhà Hồ, chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, và chứng với lòng người...
Rút lại, câu chuyện trên tuy có vẻ là thứ văn chương hoang đường (loại truyện thần tiên, truyện truyền kỳ), nhưng kỳ thực nó là lối văn chương ngụ ngôn của Đạo học Việt Nam, mang đậm tư tưởng Trang Chu. Cái tinh thần này là sự phản chiếu khuynh hướng chuộng huyền học lúc bấy giờ, và nó cũng chính là nét đặc trưng của tư tưởng xử sĩ thời Trần-Hồ trong sử Việt.[8]
Remove ads
Trích đoạn cuối truyện
“ | Sau khi nghe Trương Công ngỏ lời tuyên triệu... Tiều phu cười mà rằng:
Bèn mời Trương ở lại làm tiệc thết, cơm thổi bằng hạt điêu hồ, canh nấu bằng rau cẩm đái, lại còn có mấy món rau suối khác nữa. Canh khuya chuyện trò, đều là những nghĩa lý đáng nghe cả, nhưng không một câu nào đả động đến việc đương thời. Hôm sau, Trương lại mời:
Tiều phu nói:
Trương nói:
Tiều phu biến sắc nói:
Trương nói:
Tiều phu nói:
Trương lặng im không trả lời, trở về đem hết những lời của tiều phu tâu lại với chúa. Hán Thương không bằng lòng nhưng còn muốn đem cỗ xe êm để cố đón ra kỳ được, sai Trương lại đi vào lần nữa. Nhưng vào đến nơi thì rêu trùm cửa hang, gai góc đầy núi, dây leo, cành rậm đã lấp mất cả lối đi rồi. Chỉ thấy ở trên vách đá có hai câu thơ đề bằng nhựa cây như sau:
Dịch:
Ý lời như giọng trào phúng của họ Nguyên họ Bạch[31]. thể chữ như lối triện lệ của ông Lưu ông Tư[32], nhưng rút lại chẳng hiểu định nói gì. Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi; núi cháy hết vẫn không thấy gì, chỉ thấy con hạc đen lượn trên không bay múa. Sau cha con họ Hồ gặp phải tai họa đều đúng như lời thơ. Người tiều phu ấy có lẽ là kẻ sĩ đắc đạo đó chăng?[33] |
” |
Remove ads
Xem thêm

Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về:
Chú thích
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads