Chiến tranh Tần – Việt
xung đột quân sự cuối thế kỷ III trước Công nguyên From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Chiến tranh Tần – Việt là cuộc kháng chiến chống nhà Tần mở rộng về phía nam của các bộ tộc Bách Việt ở vùng Hoa Nam, đây là các tộc người phân bố ở miền nam Trung hoa và Bắc Bộ Việt Nam hiện nay. Chiến dịch diễn ra 221 trước công nguyên (TCN) đến năm 214 TCN, nghĩa là nhà Tần thực hiện mở rộng lãnh thổ về phía nam ngay sau khi thống nhất Trung Quốc.
Remove ads
Nguyên nhân
Sau khi tiêu diệt 6 nước Sơn Đông, thống nhất Trung Quốc và lên ngôi Hoàng đế, Tần Thủy Hoàng tiếp tục ý định mở rộng lãnh thổ về phía bắc và phía nam. Phía bắc, ông sai Mông Điềm mang 30 vạn quân đánh đuổi người Hung Nô, lập ra 44 huyện và xây Vạn lý Trường thành. Phía nam, từ khi diệt nước Sở năm 223 TCN, Tần Thủy Hoàng đã thu phục một bộ phận Bách Việt, lập ra quận Cối Kê và Mân Trung[2]. Kế tục chủ trương "bình Bách Việt" của các vua Sở thời Chiến Quốc, Thủy Hoàng sai Lâu thuyền tướng quân Đồ Thư mang 50 vạn quân tiếp tục đánh chiếm những vùng đất phía nam.
Tư liệu cổ nhất ghi chép về cuộc chiến này là sách Hoài Nam tử của hoàng thân nhà Hán là Hoài Nam vương Lưu An, sống sau thời Tần khoảng trên 50 năm. Lưu An lý giải thêm nguyên nhân nam tiến của vua Tần:
“ |
[nhà Tần] lại ham sừng tê, ngà voi, lông trả, ngọc châu và ngọc cơ của người Việt, bèn sai Đồ Thư mang 50 vạn binh chia làm 5 đạo… |
” |
— Lưu An[3] |
Remove ads
Quân Tần xuất quân
Các sử gia căn cứ theo các ghi chép của Sử ký, Hoài Nam Tử: cuộc chiến kết thúc năm 208 TCN và "kéo dài 10 năm", nên xác định rằng thời điểm Tần Thủy Hoàng phát binh đánh Bách Việt khoảng năm 218 - 217 TCN[2][3].
Quân Tần do Lâu thuyền tướng quân Đồ Thư làm tổng chỉ huy, trong đội ngũ có một tướng người Bách Việt là Sử Lộc vốn thông thạo đường sá, đất đai phía nam và từng làm chức Ngự sử giám của nhà Tần.
Quân Tần đóng sát các thủy lộ chính, dùng thuyền để chuyển quân cũng như lương thảo. Tuy nhiên không thể băng qua núi bằng đường sông, nên phải đào kênh Linh Cừ để vận chuyển, khởi công đào từ năm 219 TCN do thiết kế của giám quan Sử Lộc. Đạo quân nam chinh của Tần Thủy Hoàng đã đào núi làm sông để chuyển lương. Phỏng đoán là việc đào kinh này tốn khoảng 3 năm (tức hoàn tất năm 216 TCN).
Theo sách Hoài Nam tử, 50 vạn quân Tần chia làm 5 đạo[4]:
- Đạo thứ nhất đóng ở Đàm Thành toạ lạc tại Tịnh huyện, thuộc Hoài Hóa, phía tây nam tỉnh Hồ Nam, là một trong 12 thành của quận Kiềm Trung thời Tần (quận Vũ Lăng thời Hán). Nằm trên bờ sông Nguyên, là thị trấn Tịnh Châu của tỉnh Hồ Nam ngày nay. Là một vùng phẳng duy nhất để có thể đủ chỗ cho 100 ngàn quân trú đóng và tiện việc vận chuyển quân lương bằng đường thủy. Là đèo thuộc đất Thủy An trên núi Việt Thành, Ngũ Lĩnh, trên đường từ Hồ Nam xuống đông bắc Quảng Tây.
- Đạo thứ hai đóng ở Cửu Nghi sơn, tọa lạc tại Vĩnh Châu, cách huyện Ninh Viễn khoảng 15 km về phía nam, nằm gần cực nam tỉnh Hồ Nam, một trong những núi thuộc Manh Chử Lĩnh (sát ranh giới Hồ Nam – Quảng Đông). Phía đông núi Cửu Nghi có sông Xuân Lăng, bên bờ sông Xuân Lăng ngày nay có thị trấn Lam Sơn tương đối khá phẳng, đạo quân Tần đã đóng ở đây để tìm cách vượt Ngũ Lĩnh.
- Đạo thứ ba đóng ở Phiên Ngung, nằm ở thị trấn Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay. Quân Tần từ vùng hồ Bà Dương, theo sông Cám tiến về phía nam, đến đóng gần Hoành Phổ quan, là Mai quan ngày nay, rồi vượt Vũ Di lĩnh để tiến vào Lĩnh Nam. Sau khi vượt ải, đạo quân tiến vào Phiên Ngung bằng một nhánh chính của Bắc Giang.
- Đạo thứ tư đóng ở Nam Dã, thuộc quận Cửu Giang (quận Dự Chuơng thời Hán, nay thuộc Cám Châu nằm về phía cực nam tỉnh Giang Tây). Cám Châu nằm về phía đông bắc của Mai quan (thời Tần là Hoành Phổ quan) thuộc Vũ Di lĩnh, tọa lạc trên bờ đông nam của sông Cám (Sông Dự Chương). Sông này là thủy lộ chính theo hướng bắc-nam của tỉnh Giang Tây. Một đạo quân Tần đến đồn trú tại Nam Dã, sau khi đạo quân trước đã tiến vào Lĩnh Nam và chiếm đóng Phiên Ngung.
- Đạo thứ năm đóng ở sông Dư Can (thời Tần) hay Dư Hãn (thời Hán) ngày nay là sông Tín. Sông này bắt nguồn từ rặng Vũ Di chảy về phía tây, hợp với một nhánh của sông Cám đổ vào hệ thống sông ngòi phức tạp quanh vùng hồ Bà Dương. Tọa lạc phía tây nam tỉnh Giang Tây ngày nay. Quân Tần đã theo đường thủy đến đóng tại thượng lưu sông Dư Can (sông Tín), gần ranh giới phía đông bắc tỉnh Giang Tây và tây bắc tỉnh Phúc Kiến, để chuẩn bị vượt dãy Vũ Di tiến vào Mân Việt. Quân Tần được phỏng đoán là đã đóng gần Ưng Đàm ngày nay, tại đây có đường vượt qua Vũ Di tới Nam Bình và Phúc Châu của tỉnh Phúc Kiến (Mân Việt thời Tần). Khi vừa băng qua Vũ Di sơn là có sông Phú Đồn nối với sông Mân. Đây là tuyến đường thủy thuận tiện nối Nam Bình với Phúc Châu.
Đạo quân thứ tư và đạo thứ năm vượt Vũ Di Sơn để tấn công vào đất của người Mân Việt (Phúc Kiến) và Đông Việt (nam Chiết Giang): Quân Tần từ hồ Bà Dương ngược dòng sông Dư Can (sông Tín) lên đóng tại thượng nguồn. Sau đó đã theo một nhánh của sông Dư Can đi về phía nam là nơi có đường đèo để vượt qua Vũ Di sơn đến sông Mân, rồi theo sông này đến Phúc Châu để chinh phục Mân Việt. Thấy quân Tần tiến sang quá đông đảo, vua Mân Việt bỏ chạy. Vùng này rơi vào tay quân Tần. Vùng đất của người Mân Việt và người Đông Việt được đặt thành quận Mân Trung, gồm tỉnh Phúc Kiến và phía nam tỉnh Chiết Giang ngày nay. Sau đó, hai đạo quân này tiến xuống Phiên Ngung hội quân với đạo thứ ba.
Đạo thứ ba sau khi vượt ải đi theo đường Trường Sa tiến vào Phiên Ngung bằng một nhánh chính của Bắc Giang. Quân cũng như lương thảo theo dòng sông này nhập vào Châu Giang đến Phiên Ngung (nay là Quảng Châu). Đạo quân Tần tiến vào Phiên Ngung đã thành công trong việc chiếm đất. Nhà Tần đặt vùng này làm quận Nam Hải, dưới quyền cai trị của quan uý là Nhâm Ngao. Nhâm Ngao chết, Triệu Đà lên thay thế. Triệu Đà đã đến Lĩnh Nam từ năm 228 TCN khi quân Tần xâm lược nước Triệu thời Chiến quốc. Khi Nhâm Ngao mang quân đến Phiên Ngung, Đà được phong làm huyện lệnh ở Long Xuyên là một trong 7 huyện ở quận Nam Hải cho đến khi Ngao chết.
Trong khi 3 đạo quân còn lại trên tác chiến, đạo quân thứ nhất và thứ hai tiến sâu về phía nam, tiến vào Quảng Tây là địa bàn của người Tây Âu, hay Âu Việt. Khởi hành ngược sông Tương từ Ngũ Lĩnh, quân Tần đến đầu nguồn không tìm thấy đường thủy để chở lương sang sông Ly (tức sông Quế, thuộc vùng nội địa Quảng Tây). Vì vậy, Đồ Thư sai Sử Lộc mang một số binh sĩ đi đào kênh để mở đường lương. Con kênh mà Sử Lộc mở được các nhà sử học xác định chính là Linh Cừ hay kênh Hưng An nối liền sông Tương và sông Quế, hiện nay vẫn còn[2][4].
Khoảng năm 216 TCN, sau khi đào xong Linh Cừ, đạo quân (khoảng 20 vạn người) dưới sự lãnh đạo của Lâu thuyền tướng quân là quan uý Đồ Thư, quân Tần theo Ly giang tiến vào Tây Âu. Khi tiến đến vùng hợp lưu của sáu con sông lớn, các đạo quân này chia quân ngược dòng các dòng sông để chiếm đất. Tuy nhiên quân Tần đã gặp sự chống trả mãnh liệt của người Bách Việt.
Remove ads
Sự kháng cự của người Việt
Trong khi ba đạo quân tiến đánh vùng Mân Việt, Đông Việt và Nam Việt khá thuận lợi và hoàn thành mục tiêu, đạo quân tiến vào Ngũ Lĩnh gặp rất nhiều khó khăn. Liên tiếp trong 3 năm (218 – 215 TCN), quân Tần vừa phải đào kênh, vừa phải đối phó với sự đánh trả khá mạnh của người Âu Việt. Trong 3 năm đó quân Tần liên tục phải tác chiến, "không cởi giáp dãn nỏ"[4].
Nhờ có Linh Cừ, quân Tần tiến theo sông Quế vào lưu vực Tây Giang là địa bàn của người Tây Âu. Tại đây, quân Tần giết được thủ lĩnh người Tây Âu là Dịch Hu Tống, tuy nhiên người Bách Việt không chịu đầu hàng mà tiếp tục bầu thủ lĩnh khác lên chỉ huy cuộc chiến chống Tần.
Năm 214 TCN, Đồ Thư tiếp tục thúc quân về phía nam. Quân Tần theo sông Tả Giang và sông Kỳ Cùng tiến vào vùng đất của người Âu Việt.
Sau khi Dịch Hu Tống tử trận, để tránh thế mạnh của quân Tần, người Việt rút vào rừng sâu, cùng nhau bầu thủ lĩnh mới để chống địch. Thục Phán trở thành một thủ lĩnh Tây Âu đứng lên chống Tần. Quân Tần truy kích nhưng vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ. Người Việt đánh tập kích bất ngờ và dùng cung nỏ chống lại quân Tần, làm tổn thất nhiều binh lính của Đồ Thư.
Cuộc chiến chống Tần của người Việt diễn ra trong nhiều năm. Quân Tần tổ chức tấn công tiêu diệt không hiệu quả, dần dần lương thực bị tuyệt và thiếu, muốn tiến hay lui đều bị người Việt bủa vây đánh úp. Sử ký mô tả tình trạng quân Tần[1]:
“ |
Đóng binh ở đất vô dụng… Tiến không được, thoái không xong. Đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi. Người ta phải thắt cổ trên cây dọc đường. Người chết trông nhau |
” |
— Tư Mã Thiên |
Khi quân Tần bị nguy khốn, người Việt tổ chức tấn công, giết được tướng Đồ Thư. Quân Tần bị thua nặng, sách Hoài Nam tử mô tả: "thây phơi máu chảy hàng chục vạn người"[1].Tần cử tướng mới là Nhâm Hiêu để đàn áp Việt dữ dội và cai trị xứ thuộc địa mới này.
Hậu quả
Chiến tranh Việt-Tần là cuộc đụng độ lịch sử đầu tiên giữa người Việt và nước Trung Hoa thống nhất (không tính tới những cuộc chiến giữa nước Sở và các bộ tộc người Bách Việt thời Chiến Quốc). Các sử gia hiện đại Việt Nam coi đây là cuộc chiến chống ngoại xâm đầu tiên của Việt Nam[1]. Lãnh thổ nhà Tần đã mở rộng về phía nam, bao gồm các quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng. Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng sai Triệu Đà dời vài chục vạn người đến vùng Ngũ Lĩnh (Việt Thành, Đồ Bang, Manh Chữ, Kỵ Điền, Đại Dữu (thuộc Hồ Nam), Cần (Giang Tây), Việt (thuộc Quảng Đông) và Quế (thuộc Quảng Tây). Từ đây Lưỡng Quảng thuộc về Trung Quốc[2].
Khi Trung Nguyên đại loạn, nhà Tần suy sụp. Triệu Đà đã làm theo kế của Nhâm Hiêu, ly khai nhà Tần sắp mất mà hình thành ra nước Nam Việt.
Theo các sử gia Việt Nam hiện đại thì ở phía nam, gần như cùng thời điểm đó, sau cuộc chiến chống Tần thắng lợi, thủ lĩnh người Âu Việt là Thục Phán đã thay thế các thủ lĩnh Lạc Việt (Sử đời sau của Việt Nam gọi các thủ lĩnh này là "Hùng Vương"), sáp nhập 2 tộc Việt và thành lập nước Âu Lạc vào khoảng năm 207 TCN[5].
Sau khi nhà Tần mất 4 năm, Lưu Bang diệt Tây Sở thống nhất thiên hạ năm 202 TCN, lập ra nhà Hán. Nhà Hán phải đối phó với Hung Nô phía bắc và các chư hầu mới, không tính tới việc thôn tính Nam Việt. Gần như toàn bộ đất đai nhà Tần mới mở ở phương nam lọt vào tay Triệu Đà[6], nhà Hán tiếp quản Trung Nguyên nhưng không tiếp quản được vùng này mà dùng ngoại giao coi Nam Việt như 1 nước "chư hầu"...
Hai biến động lớn nhất sau cuộc chiến Việt-Tần là sự hình thành nước Nam Việt của Triệu Đà (quốc gia có sự Hán hóa người Bách Việt ở lãnh thổ Hoa Nam ngày nay) và nước Âu Lạc của Thục Phán thay thế nước Văn Lang (trên lãnh thổ miền bắc Việt Nam ngày nay)[7]. Nhà Triệu sau đó sáp nhập Âu Lạc (Miền Bắc Việt Nam) vào lãnh thổ nước Nam Việt; nhà Tây Hán thay thế nhà Tần ở Trung Nguyên và đánh bại Nam Việt năm 111 TCN, từ đó thì nước Việt Nam chính thức trở thành thuộc địa bị trung ương đi cai trị trực tiếp và chính thức bị các ảnh hưởng văn hóa-chính trị-triết học... của Trung Quốc ngay từ thời nhà Hán đến nay.
Remove ads
Ảnh hưởng
Hiêu chiết, đà lập tức di hịch cáo hoành phố, dương sơn, Hoàng Hoát quan viết: “đạo binh thả chí, cấp tuyệt đạo tụ binh tự thủ! ”nhân sảo dĩ pháp tru tần sở trí trưởng lại, dĩ kỳ đảng vy giả thủ. Tần dĩ phá diệt, đà tức kích tịnh quế lâm, tượng quận, tự lập vy Nam Việt Vũ vương. Hán thập nhất niên, khiển lục giả nhân lập đà vy nam việt vương, dữ phẫu phù thông sử, hoà tập bách việt, vô vy nam biên hoạn hại, dữ trưởng sa tiếp cảnh. 」[10]
Căn cứ quan vu lạc việt truyện thuyết, cổ thục của vương tộc hậu duệ thục phán diệt văn lang quốc tịnh thả kích bại kỳ tha lạc việt đích bộ lạc thủ lĩnh, dĩ loa thành (nay việt nam hà nội thị đông anh huyện nội )là đô thành kiến lập liễu âu lạc quốc ( 258 TCN ).
Tần tướng triệu đà suất quân thung công nguyên tiền 210 niên khai thủy, tiến công kiêm tịnh liễu âu lạc quốc, ước tại tiền 204niên, dĩ phiên ngu vy đô thành, tại lĩnh nam địa khu kiến lập nam việt quốc. [11]
Tần quân tại đệ nhị thứ chiến tranh hậu đích bộ đội lưu tại lĩnh nam, dữ đương địa nhân dung hợp, thành vy liễu hiện tại đích lưỡng quảng nhân đích tổ tiên. Chi hậu tại lĩnh nam do nguyên tần quân đẳng trung nguyên di dân cập bách việt nhân cộng đồng trị lý đích nam việt quốc trì tục liễu ước 93niên.
Remove ads
Xem thêm
Tham khảo
- Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh (1991), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nhà Xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp.
- Viện Sử học (1988), Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội.
- Cát Kiếm Hùng chủ biên (2006), Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, tập 1, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin.
Chú thích
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads