Danh sách quân chủ Anh

bài viết danh sách của Wikimedia From Wikipedia, the free encyclopedia

Danh sách quân chủ Anh
Remove ads

Chế độ quân chủ tại Vương quốc Anh bắt đầu từ Alfred Vĩ đại với danh hiệu Vua của Anglo-Saxons và kết thúc bởi Nữ vương Anne, người đã trở thành Nữ vương Vương quốc Liên hiệp khi Vương quốc Anh và Vương quốc Scotland thành lập liên minh năm 1707.

Thông tin Nhanh Quân chủ của Vương quốc Anh, Chi tiết ...
Remove ads

Một số dẫn chứng cho rằng một số vị vua đã từng đừng đầu vương quốc Anglo-Saxons được coi là các vị vua đầu tiên của vương quốc Anh. Ví dụ Offa, vua của Mercia, và Egbert, vua của Wessex được các nhà văn nổi tiếng coi là những vị vua đầu tiên của vương quốc Anh, nhưng một số nhà sử học không cho rằng như vậy. Vào cuối thế kỷ thứ VIII Offa đã thống trị miền nam nước Anh và qua đời năm 796. Năm 829 Egbert chinh phục Mercia, nhưng không kiểm soát được lâu. Vào cuối thế kỷ thứ IX Wessex đã chi phối vương quốc Anglo-Saxon. Vua của Wessex là Alfred Đại đế là lãnh chúa của phía tây Mercia và đã sử dụng tước hiệu Vua của Angles và Saxons, ông không bao giờ kiểm soát được miền đông và miền bắc Anh. Con trai ông, Edward Trưởng giả đã chinh phạt đông Danelaw, nhưng con trai của Edward, Æthelstan mới là người cai trị toàn bộ vương quốc Anh sau khi chinh phạt Northumbria năm 927, ông được các nhà sử học hiện đại coi là vị vua đầu tiên của vương quốc Anh.

Lãnh địa xứ Wales được sáp nhập vào vương quốc Anh theo Điều lệ Rhuddlan năm 1284, và năm 1301 vua Edward I trao cho con trai cả của mình, vị vua tương lai Edward II tước hiệu Thân vương xứ Wales. Kể từ thời điểm đó, trừ vua Edward III, tất cả con trai cả của vua Anh đều mang tước hiệu này.

Trong thời gian cai trị của Henry VIII của Anh, một Đạo luật của Quốc hội tuyên bố rằng nước Anh là một đế quốc, lãnh đạo bởi Tể tướng và nhà vua sở hữu vinh dự và tài sản hoàng gia như một vị Hoàng đế. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc lập ra danh hiệu của Hoàng đế của Anh hay Hoàng đế của Vương quốc Anh. Sau khi Nữ vương Elizabeth I qua đời năm 1603 khi không có con cái, vua James VI của Scotland đã được lên ngôi vua vương quốc Anh và đã trở thành James I của Anh. Theo sự tuyên bố hoàng gia, James có tước hiệu "vua của Liên hiệp Anh" (tiếng Anh: King of Great Britain) nhưng không sáp nhập vương quốc tới năm 1707 dưới sự trị vì của nữ vương Anne, xứ Anh đã sáp nhập với Scotland để lập lên vương quốc mới theo luật liên minh năm 1707, vương quốc mới là Vương quốc Liên hiệp Anh. Tước hiệu sau này là Quân vương Vương quốc Liên hiệp Anh.

Chú ý: Danh sách này liệt kê các quốc vương và nữ vương của Vương quốc Anh (England Kingdom), không phải là quốc vương và nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland), một quốc gia có chủ quyền mà trong đó có 4 quốc gia cấu thành, gồm: Anh, Wales, Scotland, Bắc Ireland.

Remove ads

Vương tộc Wessex

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Remove ads

Vương tộc Đan Mạch

Xứ Anh nằm dưới sự kiểm soát của Sweyn Forkbeard, một vị vua Đan Mạch, sau một cuộc xâm lược vào năm 1013, trong đó Æthelred bỏ ngai vàng và sống lưu vong ở Normandy.

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Remove ads

Vương tộc Wessex (phục tịch lần 1)

Sau cái chết của Sweyn Forkbeard, Æthelred đang sống lưu vong và một lần nữa lên ngôi vào ngày 3 tháng 2, 1014. Con trai ông kế nhiệm ông sau khi được bầu làm vua bởi công chúng của Luân Đôn và một phần của Hội đồng cố vấn Witan,[18] bất chấp những nỗ lực không ngừng của người Đan Mạch nhằm giành lấy vương miện từ tay người Tây Saxon.

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...

Vương tộc Đan Mạch (phục tịch)

Sau trận chiến Assandun ngày 18 tháng 10, 1016, Edmund II đã ký hiệp ước với Cnut trong đó tất cả xứ Anh trừ vùng Wessex sẽ được kiểm soát bởi Cnut. Sau cái chết của Edmund ngày 30 tháng 11, 1016, Cnut cai trị vương quốc Anh với tư cách là vị vua duy nhất trong hơn 19 năm sau đó.

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Remove ads

Vương tộc Wessex (phục tịch lần 2)

Sau Harthacnut, người Anglo-Saxon trở lại ngai vàng trong giai đoạn ngắn từ 1042 đến 1066.

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Remove ads

Vương tộc Godwin

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Remove ads

Vương tộc Normandy

Năm 1066, một số nhân vật nổi lên để tranh giành ngai vàng Anh. Trong số họ có Harold Godwinson (được Hội đồng cố vấn Witenagemot sau cái chết của Edward Người Tuyên xưng Đức tin), Vua Harald Hardrada của Na Uy (người tuyên bố mình là người kế vị hợp pháp của Harthacnut) và William II, Công tước xứ Normandy (một chư hầu của Vua Pháp, cháu của Edward Người Tuyên xưng Đức tin[d]). Harald và William đều lên kế hoạch xâm lược nước Anh một cách riêng biệt vào năm 1066. Godwinson đã thành công đẩy lùi cuộc xâm lược của Hardrada, nhưng cuối cùng đã mất ngai vàng vào tay William trong Cuộc xâm lược Anh của người Norman. Sau Trận Hastings vào ngày 14 tháng 10, 1066, William I chuyển vĩnh viễn thủ đô từ Winchester tới London. Sau khi Harold Godwinson tử trận ở Hastings, Hội đồng người Anglo-Saxon, Witenagemot bầu lên Edgar Ætheling, con trai của Edward Đày ải và cháu trai của Edmund II, làm vua. Vị vua trẻ đã không thể kháng cự quân xâm lược và chưa bao giờ đăng quang. William sau đó đăng quang và trở thành Vua William I của Anh vào ngày Giáng sinh năm 1066, tại Tu viện Westminster.

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Remove ads

Vương tộc Blois

Henry I không có người Kế vị hợp pháp là nam giới vì con trai của ông, William Adelin, đã chết trong thảm họa Con tàu trắng năm 1120. Điều này đã chấm dứt dòng dõi trực tiếp của các vị vua Norman ở Anh. Henry chọn con gái lớn của mình, Matilda (hay Bá tước phu nhân xứ Anjou sau cuộc hôn nhân thứ hai với Geoffrey Plantagenet, Bá tước Anjou và Hoàng hậu qua cuộc hôn nhân đầu tiên với Heinrich V của Thánh chế La Mã), với tư cách là người Kế vị của ông. Trước khi chọn Matilda làm người Kế vị, ông đã đàm phán để chọn cháu trai của mình Stephen của Blois làm người Kế vị của mình. Khi Henry qua đời, Stephen đến Anh, và trong một cuộc binh biến, chính ông đã lên ngôi thay cho Matilda. Khoảng thời gian sau đó được gọi là Thời kỳ Hỗn loạn (The Anarchy) - một cuộc nội chiến kéo dài hơn hai thập kỷ.

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Remove ads

Vương tộc Anjou/Plantagenet

Vua Stephen đã đi đến một thỏa thuận với Matilda vào tháng 11 năm 1153 với việc ký kết Hiệp ước Wallingford, trong đó Stephen công nhận Henry, con trai của Matilda và người chồng thứ hai của bà Geoffrey Plantagenet xứ Anjou, với tư cách là người Kế vị của mình. Gia tộc có nguồn gốc từ cuộc hôn nhân của Matilda và Geoffrey được biết đến rộng rãi với hai cái tên, Vương tộc Anjou (theo tước hiệu Bá tước xứ Anjou của Geoffrey) và Vương tộc Plantagenet, theo biệt hiệu của ông. Trên thực tế, các quốc vương từ Henry II đến Richard II đều thuộc dòng dõi phụ hệ chính từ Geoffrey, tức là cùng chung một Vương tộc. Tuy nhiên, các sử gia hiện đại thường coi các quốc vương từ Henry II đến John thuộc về vương tộc Anjou, khi họ vẫn cai trị Đế chế Angevin, trong khi các quốc vương từ Henry III đến Richard II thuộc về vương tộc Plantagenet, khi Đế chế Angevin đã sụp đổ. Các quốc vương sau đó, dù vẫn là các dòng phụ hệ thứ của Vương tộc Anjou và Plantagenet, được gọi là Vương tộc LancasterVương tộc York trong Chiến tranh Hoa Hồng.

Các quốc vương thuộc Vương tộc Anjou, thường được gọi là người Angevin (tiếng Pháp có nghĩa là "từ Anjou") cai trị Đế chế Angevin trong thế kỷ 12 và 13, một khu vực trải dài từ dãy núi Pyrenees đến Ireland. Họ không coi xứ Anh là quê hương chính của mình cho đến khi hầu hết các lãnh thổ trên lục địa của họ bị mất vào tay các thế lực khác dưới thời Vua John. Người Angevin đã bắt đầu sử dụng Vương huy Vương thất Anh, thường biểu thị biểu tượng của các vương quốc do họ hoặc những người kế vị nắm giữ hoặc tuyên bố chủ quyền, mặc dù không có biểu tượng của Ireland trong một thời gian khá dài. Dieu et mon droit lần đầu tiên được sử dụng làm phương châm bởi Richard I vào năm 1198 tại Trận chiến Gisors, nơi ông đánh bại lực lượng của Philippe II của Pháp.[35][36] Nó thường được sử dụng như châm ngôn của các quốc vương Anh kể từ khi được thông qua bởi Edward III.[35]

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Remove ads

Vương tộc Plantagenet

Vương tộc Plantagenet lấy tên từ Geoffrey Plantagenet xứ Anjou, chồng của Matilda và cha của Henry II. Cái tên Plantagenet không được biết đến là một họ đến tận khi Richard xứ York lấy nó làm họ của mình vào thế kỷ 15. Kể từ đó, nó đã được áp dụng làm tên cho vương tộc cho các quốc vương xứ Anh từ Henry II trở đi. Tuy nhiên, các sử gia hiện đại thường coi Henry II và các con trai của ông là thành viên của Vương tộc Anjou, hay Angevin nhờ đế chế lục địa rộng lớn của mình, và hầu hết các vị vua Angevin trước John đã dành nhiều thời gian ở các thuộc địa lục địa của họ hơn là ở xứ Anh. Kể từ Henry III, sau khi mất hầu hết đất trên lục địa, các vị vua Plantagenet đã giành nhiều thời gian ở Anh hơn. Các vương tộc LancasterYork đều là các nhánh thứ của vương tộc Plantagenet.

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...

Vương tộc Lancaster

Vương tộc Lancaster có nguồn gốc từ con trai thứ ba còn sống của Edward III, John xứ Gaunt. Henry IV soán ngôi Richard II (và cũng thay thế vị trí kế vị ngai vàng của Edmund Mortimer (khi ấy 7 tuổi), một hậu duệ của con trai thứ hai của Edward III, Lionel xứ Antwerp).

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...

Vương tộc York

Vương tộc York tuyên bố quyền thừa kế ngai vàng với nguồn gốc từ con trai thứ hai còn sống của Edward III, Lionel xứ Antwerp, nhưng nó thừa hưởng cái tên của mình từ người con trai thứ tư còn sống của Edward, Edmund xứ Langley, Duke of York đầu tiên. Chiến tranh Hoa Hồng (1455–1485) chứng kiến ngai vàng được chuyển qua lại giữa hai vương tộc đối thủ của nhau, Lancaster và York.

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...

Vương tộc Lancaster (phục tịch)

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...

Vương tộc York (phục tịch)

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Remove ads

Vương tộc Tudor

Vương tộc Tudors có nguồn gốc theo mẫu hệ từ John Beaufort, một trong những người con ngoài giá thú của John of Gaunt (người con trai thứ ba còn sống của Edward III), với tình nhân lâu năm của Gaunt Katherine Swynford. Hậu duệ của những người con ngoài giá thú của các vị vua xứ Anh sẽ không có quyền kế vị ngai vàng, nhưng tình hình trở nên phức tạp hơn khi Gaunt và Swynford cuối cùng đã kết hôn vào năm 1396 (25 năm sau khi John Beaufort ra đời). Về cuộc hôn nhân này, Giáo hội đã tuyên bố nhà Beaufort được hợp pháp hóa thông qua một sắc lệnh của giáo hoàng trong cùng một năm.[57] Nghị viện cũng làm điều tương tự như vậy trong một Đạo luật ban hành năm 1397.[58] Trong một tuyên bố sau đó bởi con trai hợp pháp của John xứ Gaunt, Vua Henry IV, cũng công nhận tính hợp pháp của nhà Beaufort, nhưng tuyên bố họ không đủ tư cách để kế vị ngai vàng.[59] Tuy nhiên, nhà Beaufort vẫn giữ quan hệ đồng minh với các hậu duệ khác của Gaunt, những thành viên của Vương tộc Lancaster.

Cháu gái của John Beaufort, Quý bà Margaret Beaufort cưới Edmund Tudor. Tudor là con trai của một vị quan xứ Wales tên là Owain Tudur (được Anh hóa là Owen Tudor) và Catherine của Pháp, góa phụ của Vua Henry V nhà Lancaster. Edmund Tudor và anh chị em của ông hoặc là con ngoài giá thú, hoặc là con của một cuộc hôn nhân bí mật, và tài sản của họ là nhờ thiện chí của anh cùng mẹ khác cha hợp pháp của họ, Vua Henry VI. Khi Vương tộc Lancaster sụp đổ, gia tộc Tudor đã trở thành gia tộc kế tục và thay thế họ.

Vào cuối thế kỷ 15,gia tộc Tudor là hy vọng cuối cùng của những người ủng hộ vương tộc Lancaster. Con trai của Edmund Tudor trở thành vua Henry VII sau khi đánh bại Richard III trong Trận Bosworth vào năm 1485, chiến thắng Chiến tranh Hoa Hồng. Vua Henry cưới Elizabeth of York, con gái của Edward IV, qua đó thống nhất hai gia tộc Lancaster và York.

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...
Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...

Vương tộc Stuart

Cháu họ của Elizabeth I, người đang là Vua James VI của Scotland, kế vị ngai vàng xứ Anh và trở thành James I trong Liên minh vương thất. James có nguồn gốc từ vương tộc Tudor qua cụ của ông, Margaret Tudor, con gái lớn nhất của Henry VII và vợ của James IV of Scotland. Năm 1604, ông tự tuyên bố mình là Vua Anh [King of Great Britain]. Tuy nhiên, hai nghị viện vẫn hoạt động độc lập cho đến Đạo luật Liên minh 1707.[71]

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...

Đệ Nhất Cộng hoà Anh

Không có quân chủ nào cai trị sau vụ xủ tử Charles I vài năm 1649. Giữa các năm 1649 và 1653, không có bất kỳ ai giữ vị trí nguyên thủ quốc gia của Anh, khi Anh được quản lý trực tiếp bởi Nghị viện Tàn dư với một Hội đồng Nhà nước Anh phục vụ với vai trò hành pháp trong thời kỳ được biết đến với tên gọi Thịnh vượng chung Anh.

Sau một cuộc đảo chính vào năm 1653, Oliver Cromwell đã trực tiếp kiểm soát Anh từ tay Nghị viện. Ông giải tán Nghị viện Tàn dư với tư cách người đứng đầu lực lượng quân sự và Anh bước vào thời kỳ Bảo hộ, dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Cromwell với danh hiệu Bảo hộ công.

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...

Richard Cromwell đã bị Ủy ban An ninh Anh cưỡng chế phế truất vào tháng 5 năm 1659. Xứ Anh khi ấy không có bất kỳ nguyên thủ quốc gia nào. Sau gần một năm vô chính phủ, chế độ quân chủ đã được trung hưng khi Charles II trở về từ Pháp để nhận ngai vàng.

Vương tộc Stuart (phục vị)

Mặc dù chế độ quân chủ được phục hồi năm 1660, nhưng không ổn định cho tới Cách mạng vinh quang năm 1688 khi Nghị viện cấm người công giáo La Mã lên ngôi.

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...

Đệ Nhị Cộng hoà Anh

James II bị Nghị viện phế truất chưa đầy 4 năm sau khi lên ngôi, bắt đầu giai đoạn chuyển tiếp thứ hai của thế kỷ. Để giải quyết câu hỏi ai sẽ thay thế vị vua bị phế truất, một Nghị viện Công ước được triệu tập đã bầu chọn con gái của James là Mary II và chồng của bà (cũng là cháu trai gọi ông là cậu) William III làm đồng quân chủ, trong Cách mạng Vinh quang.

Vương tộc Stuart và Orange

Thêm thông tin Quân chủ, Chân dung ...

Trong khi James và các hậu duệ của mình tiếp tục tuyên bố với Ngai vàng, tất cả các tín đồ Công giáo (như James và con trai mình là Charles) đã bị cấm lên ngôi chiếu theo Đạo luật Dàn xếp 1701, ban hành bởi Anne, em gái theo Tin lành của James.

Với Đạo luật Liên minh 1707, Anh [England] với tư cách là một quốc gia có chủ quyền chính thức kết thúc, được thay thế bởi Vương quốc Anh mới; xem Danh sách quân chủ Liên hiệp Anh.

Đạo luật Liên minh 1707

Đạo luật Liên minh 1707 thựuc ra là 2 đạo luật nghị viện khác nhau được thông qua trong các năm 1706 và 1707 bởi Nghị viện xứ AnhNghị viện Scotland để hiệu lực hóa Hiệp ước Liên minh được ký kết vào ngày 22 tháng 7, 1706. Đạo luật kết hợp Vương quốc Anh [Kingdom of England] và Vương quốc Scotland (trước đây là 2 quốc gia có chủ quyền riêng biệt, với hai cơ quan lập pháp riêng biệt nhưng chung một quân chủ từ thời James VII và I) và tạo thành Vương quốc Anh mới [Kingdom of Great Britain].[84]

Anh [England], Scotland và Ireland đã có chung một quân chủ trong hơn 100 năm, từ Liên minh vương thất vào năm 1603, khi Vua James VI của Scotland kế vị ngai vàng xứ Anh và Ireland từ bà họ của mình, Nữ vương Elizabeth I. Mặc dù được mô tả là một Liên minh vương thất, nhưng thực tế cho đến năm 1707, hai vương thất riêng biệt mới chính thức được kết hợp làm một.

Đã có những nỗ lực vào năm 1606, 1667 và 1689 nhằm thống nhất Anh và Scotland bằng Đạo luật của Nghị viện nhưng phải đến đầu thế kỷ 18, ý tưởng này mới nhận được sự ủng hộ của cả hai thể chế chính trị đằng sau nó, mặc dù vì những lý do khá khác nhau.

Bảng biểu quân chủ vương quốc Anh

Anne của AnhMary II của AnhWilliam III của AnhJames II của AnhCharles II của AnhRichard CromwellOliver CromwellCharles I của AnhJames I của AnhElizabeth I của AnhFelipe II của Tây Ban NhaMary I của AnhJane GreyEdward VI của AnhHenry VIII của AnhHenry VII của AnhRichard III của AnhEdward V của AnhEdward IV của AnhHenry VI của AnhEdward IV của AnhHenry VI của AnhHenry V của AnhHenry IV của AnhRichard II của AnhEdward III của AnhEdward II của AnhEdward I của AnhHenry III của AnhJohn của AnhRichard I của AnhHenry vua trẻHenry II của AnhNữ hoàng MatildaStephen của AnhHenry I của AnhWilliam II của AnhWilliam I của AnhEdgar the ÆthelingHarold GodwinsonEdward the ConfessorHarthacnutHarold HarefootCnut Đại đếEdmund Phi thườngÆthelred Bất tàiSweyn ForkbeardÆthelred Bất tàiEdward Tuẫn đạoEdgar Hòa bìnhEadwigEadredEdmund IÆthelstanCộng hòa AnhNhà StuartTriều đại TudorNhà YorkNhà LancasterNhà PlantagenetAngevin vua của AnhNormansNhà KnýtlingaNhà Wessex

Ghi chú

Chung

  1. Æthelred bị lưu đày vào giữa năm 1013, theo sau các cuộc tấn công của người Đan Mạch, nhưng được mời trở lại ngai vàng sau cái chết của Sweyn Forkbeard vào năm 1014.[15]
  2. Harold chỉ được công nhận là Nhiếp chính cho đến năm 1037, khi ông được công nhận là vua.[22]
  3. Sau khi trị vì được khoảng 9 tuần, Edgar Atheling quy phục William I, người đã giành được quyền kiểm soát khu vực phía nam và phía tây London.[26]
  4. Mẹ của Edward là Emma xứ Normandie và ông nội của William là Richard II, Công tước xứ Normandy là hai anh em, họ đều là con của Richard I xứ Normandie
  5. Đôi khi William Con hoang
  6. Matilda không được liệt kê là một vị quân chủ xứ Anh trong nhiều phả hệ trong các văn bản, bao gồm cả Carpenter, David (2003). A Struggle for Mastery. tr. 533.; Warren, W.L. (1973). Henry II. Berkeley. tr. 176. ISBN 9780520022829.; and Gillingham, John (1984). The Angevin Empire. tr. x..
  7. Ngày mất của Edward II bị tranh cãi bởi sử gia Ian Mortimer, người lập luận rằng ông có thể không bị sát hại mà bị giam cầm ở châu Âu trong vài năm nữa.[46]
  8. Edward V bị Richard III phế truất, người đã soán ngôi với lý do Edward là con ngoài giá thú. Ông chưa bao giờ được trao vương miện.[54]
  9. Edward HallRaphael Holinshed đều ghi lại một đám cưới bí mật trước đó giữa Henry và Anne, được tiến hành tại Dover vào ngày 15 tháng 11 năm 1532.
  10. Bà ngoại của Grey là Mary Tudor, là em gái ruột của Vua Henry VIII, bố của Edward VI
  11. Philip không có ý định trở thành một người phối ngẫu đơn thuần; đúng hơn, ông muốn trở thành đồng quân vương với vợ của mình là Mary I. (Xem Đạo luật Hôn nhân giữa Nữ vương Mary với Philip của Tây Ban Nha.) Tuy nhiên, mức độ quyền lực và địa vị của ông không rõ ràng. Đạo luật đã trao cho ông ta danh hiệu vua và tuyên bố rằng ông sẽ hỗ trợ Nữ vương trong việc quản lý hạnh phúc các vương quốc và lãnh thổ của bà, nhưng ở những nơi khác lại nói rằng Mary sẽ là Nữ vương duy nhất.
  12. Vua Philip đồng cai trị với vợ của mình, tuy nhiên vua Philip lại không biết tiếng Anh vì vậy đã ra lệnh tất cả các vấn đề quốc gia đều được thực hiện bằng tiếng Latin và tiếng Tây Ban Nha.[65][67] Tiền xu được đúc có hình của cả Mary và Philip, và Quốc huy Anh có cả biểu tượng cá nhân của Philip để biểu thị triều đại chung của họ.[68] Các đạo luật đã được thông qua ở Anh và ở Ireland rằng bất kỳ ai từ chối Philip với tư cách là một vị vua sẽ bị kết tội phản quốc. (xem Đạo luật Phản quốc 1554).[69]

Ngày đăng quang

  1. William I đăng quang vào ngày 3 tháng 4, 1066
  2. William II đăng quang vào ngày 26 tháng 9, 1087.
  3. Henry I đăng quang vào ngày 5 tháng 8, 1100.
  4. Stephen đăng quang vào ngày 22 tháng 12, 1135.
  5. Henry II đăng quang vào ngày 19 tháng 12, 1154 với vương hậu của mình, Aliénor xứ Aquitaine.
  6. Richard I đăng quang vào ngày 3 tháng 9, 1189.
  7. John đăng quang vào ngày 27 tháng 5, 1199.
  8. Henry III đăng quang vào ngày 28 tháng 10, 1216.
  9. Edward I đăng quang vào ngày 19 tháng 8, 1274 với Vương hậu Eleanor.
  10. Edward II đăng quang vào ngày 25 tháng 2, 1308 với Isabelle của Pháp và Navarra.
  11. Edward III đăng quanng vào ngày 1 tháng 2, 1327.
  12. Richard II đăng quang vào ngày 16 tháng 7, 1377.
  13. Henry IV đăng quang vào ngày 13 tháng 10, 1399.
  14. Henry V đăng quang vào ngày 9 tháng 4, 1413.
  15. Henry VI đăng quang vào ngày 6 tháng 11, 1429.
  16. Edward IV đăng quang vào ngày 28 tháng 6, 1461.
  17. Richard III đăng quang vào ngày 6 tháng 7, 1483 với Vương hậu Anne.
  18. Henry VII đăng quang vào ngày 30 tháng 10, 1485.
  19. Henry VIII đăng quang vào ngày 24 tháng 6, 1509 với Vương hậu Catherine.
  20. Edward VI đăng quang vào ngày 20 tháng 2, 1547.
  21. Mary I đăng quang vào ngày 1 tháng 10, 1553.
  22. Elizabeth I đăng quang vào ngày 15 tháng 1, 1559.
  23. James I đăng quang vào ngày 25 tháng 7, 1603 với Vương hậu Anne.
  24. Charles I đăng quang vào ngày 2 tháng 2, 1626.
  25. Charles II đăng quang vào ngày 23 tháng 4, 1661 nhưng đã được công nhận làm vua trước đó bởi phe bảo hoàng vào năm 1649.
  26. James II đăng quang vào ngày 23 tháng 4, 1685 với Vương hậu Mary.
  27. Mary II và William III đồng đăng quang vào ngày 11 tháng 4, 1689.
  28. Anne đăng quang vào ngày 23 tháng 4, 1702.

Nơi chôn cất

  1. Ælfweard được chôn cất tại Winchester.[8]
  2. William I được chôn cất tại Tu viện Saint-Étienne (tiếng Pháp: Abbaye aux Hommes) ở Pháp.
  3. Henry I được chân cất tại Tu viện Reading.
  4. Henry II được chôn cất tại Tu viện Fontevraud.
  5. Richard I được chôn cất tại Nhà thờ Rouen. Thi hài của ông hiện được đặt tại Tu viện Fontevraud.
  6. John được chôn cất tại Nhà thờ Worcester.
  7. Thi hài của Richard III được khai quật và cải táng tại Nhà thờ Leicester vào năm 2015.

Xem thêm

Tham khảo

Liên kết ngoài

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads