Gia đình Minh Mạng

From Wikipedia, the free encyclopedia

Remove ads

Hoàng đế Minh Mạng hay Minh Mệnh (明命, 25 tháng 5 năm 1791 - 20 tháng 1 năm 1841[1]), là con trai thứ tư của Hoàng đế Gia Long và là vị vua thứ hai của Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ ngày 14 tháng 2 năm 1820 đến khi qua đời. Hưởng Dương 51 Tuổi

Theo thống kê từ sử sách và thế phả dòng họ Nguyễn, vua Minh Mạng có rất nhiều vợ, trong số đó có 43 người vợ từng sinh nở; 142 người con gồm 78 hoàng tử, 64 hoàng nữ.[2]

Remove ads

Vợ và con

Trong đời sống riêng tư, người ta cũng phải ngạc nhiên về sức cường tráng của ông. Có một bài thuốc bổ dương mang tên Minh Mạng thang được quan Thái y căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của ông để lập ra thang thuốc rượu.

Thumb
Lăng Minh Mạng.

Ông không lập hoàng hậu, mà chỉ cao nhất là ngôi phi. Tá Thiên Nhân hoàng hậu (tước vị được phong sau khi mất), húy là Hồ Thị Hoa, sinh 1791. Bà qua đời năm 1807, 13 ngày sau khi sinh hạ Hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị sau này). Lăng của bà hiệu là Hiếu Đông Lăng, phía tả lăng Thiệu Trị, tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Hai vương phi được sủng ái nhất là Hiền phi Ngô Thị Chính, con của Chưởng cơ Ngô Văn Sở và Lệ tần Nguyễn Thị Thúy Trúc, con của Vệ úy Nguyễn Gia Quý. Hiền phi Ngô thị sinh được 4 hoàng tử và 2 công chúa; Lệ tần Nguyễn Gia thị sinh được 7 hoàng tử và 3 công chúa. Hai bà này thường xung đột với nhau. Bà Ngô Thị Chính thường sinh sự với các bà khác vì cậy được vua yêu, khiến Minh Mạng nhiều khi lâm vào cảnh khó xử. Tương truyền bà Hiền phi thường nói những người thân cận rằng dù vua có yêu mình cỡ nào thì khi chết cũng chỉ có hai bàn tay không. Vua biết vậy nên khi bà mất đã thân hành đến chỗ bà nằm mà đặt vào tay 2 nén vàng, để khỏi ra đi với hai bàn tay không. Điều này cũng mâu thuẫn với gia phả họ Nguyễn Phước thì bà Hiền phi được ghi lại là mất vào năm 1843, sau vua Minh Mạng 2 năm[3].

Khi vua nghỉ ngơi có 5 bà hầu hạ: một vấn thuốc, một têm trầu, một đắm bóp, một hát ru, một bà chực sẵn để khi dậy có điều sai bảo. Theo thường lệ, mỗi đêm vua cho triệu 5 bà vào hầu, mỗi canh một bà.

Sách Minh Mạng chính yếu chép: Năm Minh Mạng thứ 6 (1826), mùa Xuân, tháng giêng, trong Kinh Kỳ ít mưa, nhà vua lấy làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo Khanh là ông Hoàng Quỳnh rằng:

Remove ads

Đế hệ thi và Phiên hệ thi

Năm 1823, vua Minh Mạng đã làm bài Đế hệ thi và 10 bài Phiên hệ thi để quy định các chữ đệm đặt tên cho con cháu các thế hệ sau. Bài Đế Hệ Thi gồm 20 chữ, dùng làm chữ lót tên cho mỗi thế hệ từ vua Minh Mạng trở về sau[4].

Miên Hồng Ưng Bữu Vĩnh
Bảo Quý Định Long Trường
Hiền Năng Khang Kế Thuật
Thế Thụy Quốc Gia Xương

綿洪膺寶永
保貴定隆長
賢能堪繼述
世瑞國嘉昌

Ngoài ra nhà vua còn có 10 bài Phiên hệ thi để phân phát cho dòng dõi các anh em của mình, gồm 10 phòng: Anh Duệ (Thái tử Cảnh), Kiến An, Định Viễn, Diên Khánh, Điện Bàn, Thiệu Hóa, Quảng Oai, Thường Tín, Yên Khánh, Từ Sơn. Lại có quy định kể từ lúc đó khi hậu cung có người sinh hoàng tử hay hoàng nữ, đầy 100 ngày làm lễ bảo kiến [ẵm đến ra mắt vua] rồi chiếu theo đế hệ mà cho tên. Khi đã cho tên mới thì tên cũ thôi hẳn, không dùng nữa[5]. Tên các công tử thì lần lượt lấy các chữ ở bài thơ về công hệ nào chữ dưới thì lấy ngũ hành tương sinh(đất sinh ra vàng; vàng sinh ra nước; nước sinh ra cây; cây sinh ra lửa; lửa sinh ra đất) mà dùng bộ Thổ làm đầu.

Lời tựa nhà vua đề rằng[6]

Nhà nước ta họ Nguyễn, khởi phát từ Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoa. Buổi đầu đời trước đã là họ lớn, đời đời làm quan đến hơn vài trăm năm, tích luỹ nhân đức, nên có ngày nay, thực có thể sánh với nhà Chu được. Do đó trời cho mệnh tốt, sinh ra Triệu tổ Tĩnh hoàng đế ta (Nguyễn Kim), gây dựng cơ đồ lớn, kế sinh Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta (Nguyễn Hoàng), dựng nền ở cõi Nam. Bèn lấy chữ Phước nối theo chữ Nguyên, gọi quốc tính là Nguyễn Phước. Các vua thánh nối nhau, thánh này nối thánh khác, rồi đến Hoàng khảo Thế Tổ Cao hoàng đế ta (vua Gia Long), dẹp yên họa loạn mà có cả nước Việt, sắc định Ngọc phả, lấy con cháu Thái Tổ vào Nam và dòng các vua thánh làm tôn thất họ Nguyễn Phước, con cháu Thái Tổ ở Bắc và các phái trước làm công tính họ Nguyễn Hựu. Đến như tên huý các thánh thì phần nhiều theo bộ Thủy; sau đến Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế ta thì tên ngự và tên tôn thất cũng có khi dùng bộ Nhật. Truyền đến Hoàng khảo ta thì chuyên dùng bộ Nhật. Từ trăm năm gần đây, tôn thất sinh thêm nhiều, đặt tên phần nhiều trùng điệp, Hoàng khảo ở ngôi, ý muốn đổi lại chữ đặt tên để truyền cho con cháu dùng mãi lâu dài về sau, tiếc rằng việc chưa làm được. Trẫm nghĩ nối theo ý tốt tiền nhân để thành được chí của tiên thế, tự soạn ra 20 chữ bộ Nhật, dùng để cho người nối nghiệp về sau đến ngày nối ngôi có thể lấy một chữ làm tên, lấy theo nghĩa nhật là tượng trưng ngôi vua, mà chữ tên đặt khi tuổi nhỏ làm tên tự. Còn những con cháu và con cháu của anh em thì lại soạn những mỹ tự, chia làm dòng đế và các dòng của anh trẫm là Anh Duệ thái tử, cùng em trẫm là Kiến An công, Định Viễn công, Diên Khánh công, Điện Bàn công, Thiệu Hoá công, Quảng Oai công, Thường Tín công, Yên Khánh công, Từ Sơn công, cả thảy 10 hệ. Khi mới sinh xin đặt tên, thì tên hoàng tử chữ trên lần lượt lấy từng chữ ở bài thơ đế hệ, chữ dưới lấy chữ bộ nào về đời thứ mấy. Tên các công tử thì lần lượt lấy các chữ ở bài thơ về công hệ nào chữ dưới thì lấy ngũ hành tương sinh làm đầu. Ví như dòng đế, thì Miên Tông, Miên Định; dòng Anh duệ thì Mỹ Đường, Mỹ Thuỳ; dòng Kiến An thì Lương Kỳ, Lương Viên; dòng Định Viễn thì Tĩnh Cơ, Tĩnh Cận; dòng Diên Khánh thì Diên Vực, Diên Đề; dòng Điện Bàn thì Tín Kiên, Tín Phác; dòng Thiệu Hoá thì Thiện Khuê, Thiện Chỉ; dòng Quảng Oai thì Phượng Tại, Phượng Vu; dòng Thường Tín thì Thường Nhâm, Thường Dung; dòng Yên Khánh thì Khâm Thịnh, Khâm Bích; dòng Từ Sơn thì Từ Đàn, Từ Cương. Như thế thì thế thứ rõ ràng mà không lẫn, thân sơ phân biệt mà có thể biết rõ được. Cái đạo giữ luân lý hoà họ hàng từ đấy thịnh lên, mà chi phái ngọc diệp thiên hoàng từ đấy rõ rệt. Con cháu ta nên theo giữ phép hay, khiến cho gốc cành trăm đời truyền ức muôn năm, để mong người báo đáp trời và tổ tiên cho mệnh tốt.

Minh Mạng hi vọng rằng con cháu mình nối tiếp đế nghiệp sẽ kéo dài được khoảng 500 năm, tương ứng với 20 đời[7]. Tuy nhiên thực tế nhà Nguyễn chỉ được đến đời thứ 5 (Vĩnh) thì bị lật đổ bởi Cách mạng tháng Tám.

Remove ads

Hậu phi (được ghi nhận)

Thêm thông tin Phong hiệu, Thụy hiệu ...

Ngoài ra còn nhiều bà khác chưa rõ tên và danh phận.

Remove ads

Con cái

Minh Mạng có tới 142 người con, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa.

Hoàng tử

Thêm thông tin Số thứ tự, Tước hiệu ...

Hoàng nữ

Thêm thông tin Số thứ tự, Tước hiệu ...
Remove ads

Tham khảo

  • Tôn Thất Bình (1993), Đời sống cung đình triều Nguyễn, Nhà xuất bản Thuận Hóa
  • Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc (1995), Nguyễn Phúc Tộc thế phả, Nhà xuất bản Thuận Hóa
  • Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục tập 2, Nhà xuất bản giáo dục, bản điện tử

Chú thích

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads