Herpes đơn dạng

From Wikipedia, the free encyclopedia

Herpes đơn dạng
Remove ads

Herpes simplex (tiếng Hy Lạp cổ: ἕρπης - herpes có nghĩa là bò hoặc trườn, simplex - tiếng Latin có nghĩa là "đơn giản") là một bệnh do virus gây ra, bởi cả hai loại virus herpes simplex loại 1 (HSV-1) và loại 2 (HSV-2). Nhiễm virus herpes được phân loại dựa trên bề mặt bị nhiễm bệnh ví dụ như Herpes miệng có các triệu chứng nhìn thấy được như: lở loét, lạnh hoặc sốt, herpes miệng là hình thức phổ biến nhất của bệnh. Herpes sinh dục, còn được gọi là mụn rộp sinh dục, mụn giộp sinh dục hay đơn giản là herpes, là hình thức phổ biến thứ hai. Tất cả các triệu chứng bệnh khác như viêm sưng mủ herpes, herpes ở mắt (viêm giác mạc), herpes não (viêm não), viêm màng não Malloret, herpes ở trẻ sơ sinh, hay bệnh liệt Bell đều do siêu vi trùng herpes simplex gây ra.

Thông tin Nhanh Chuyên khoa, ICD-10 ...
Remove ads

Phân loại

Herpes simplex được chia thành hai loại: HSV type 1 và HSV type 2. HSV1 chủ yếu gây ra các bệnh ở miệng, họng, mặt, mắt, và nhiễm trùng hệ thống thần kinh trung ương, trong khi HSV2 gây ra nhiễm trùng ở bộ phận sinh dục.

Dấu hiệu và triệu chứng

Nhiễm trùng thường gặp ở các khu vực da hoặc niêm mạc của mặt, miệng, cơ quan sinh dục, hoặc bàn tay (chứng sưng có mủ), nghiêm trọng hơn khi virus lây nhiễm và gây tổn thương mắt (herpes viêm giác mạc), hoặc xâm nhập hệ thống thần kinh trung ương, gây tổn hại não (herpes viêm não). Bệnh nhân chưa trưởng thành hoặc bị ức chế hệ thống miễn dịch, như trẻ sơ sinh, người nhận ghép, hoặc bệnh nhân AIDS dễ bị biến chứng nặng do nhiễm HSV.[1]

Khi nhiễm herpes simplex, virus này sẽ thường trú vĩnh viễn trong cơ thể người bệnh, đầu tiên virus xâm nhập vào dây thần kinh tại khu vực bị lây nhiễm, sau đó di chuyển đến các cơ quan trong tế bào thần kinh, và trở thành tiềm ẩn trong các hạch( HSV-1 cư trú ở hạch thần kinh sinh ba, HSV-2 cư trú ở hạch lưng-cùng).[2]

Thêm thông tin Trạng thái, Miêu tả ...

Bệnh liệt Bell

Mặc dù phát hiện những dẫn chứng về việc phát hiện virus herpes simplex trong người bệnh nhân bị chứng liệt Bell, một loại liệt mặt, tuy nhiên các thuốc kháng virus không cải thiện được bệnh, cho nên nguyên nhân chính xác của bệnh liệt Bell, không biết có thể liên quan đến sự kích hoạt của virus herpes simplex loại 1 hay không.[6]

Bệnh Alzheimer

HSV-1 đã được đề xuất như là một nguyên nhân có thể gây ra bệnh Alzheimer [7][8]. HSV-1 có thể tương tác với các thành phần và các thụ thể của lipoprotein, gây tổn hại cho hệ thần kinh và làm tăng nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer.[9][10]

Remove ads

Sinh lý bệnh

Một người có tiền sử nhiễm virus herpes simplex (huyết thanh dương tính) có thể lây truyền virus này cho một người khác thông qua sự tiếp xúc trực tiếp với vết thương hoặc các chất dịch cơ thể của người bệnh, ngay cả những vết trầy nhỏ trên màng nhầy cũng đủ để virus truyền vào người khác. Virus herpes simplex loại 2 có thể truyền từ da qua da khi tiếp xúc trực tiếp.[11]

Phòng chống

Phương pháp hàng rào bảo vệ

Thumb
Hàng rào bảo vệ, chẳng hạn như bao cao su, có thể làm giảm nguy cơ lây truyền virus herpes.

Bao cao su bảo vệ tương đối chống lại HSV-2 ở cả nam giới và phụ nữ, người sử dụng bao cao su đúng cách giảm 30% nguy cơ lây nhiễm HSV-2 so với những người không bao giờ sử dụng bao cao su[12]. Các virus không thể đi xuyên qua bao cao su, tuy nhiên một số vùng tiếp xúc khác của cơ thể như da, bìu, hậu môn, mông, đùi hay phần gốc dương vật không được bảo vệ và dễ nhiễm hay lây truyền virus.

Việc sử dụng thuốc kháng virus, chẳng hạn như valaciclovir, kết hợp với bao cao su, làm giảm cơ hội lây truyền. Đề tài thuốc diệt khuẩn có chứa hóa chất bất hoạt và ngăn chặn xâm nhập của virus đang được nghiên cứu.

Vắc-xin

Vắc xin HSV đang được thử nghiệm, sau khi phát triển, có thể được sử dụng để giúp đỡ trong công tác phòng chống hoặc giảm thiểu lây nhiễm cũng như điều trị các bệnh gây ra bởi virus herpes simplex.[13]

Thuốc kháng siêu vi

Thuốc kháng siêu vi có thể làm giảm tần suất xuất hiện các triệu chứng viêm nhiễm ở đường sinh dục gây ra bởi HSV-2.

Thời kỳ mang thai

Để ngăn ngừa nhiễm trùng sơ sinh, phụ nữ có huyết thanh âm tính được khuyến cáo tránh các quan hệ tình dục hoặc tình dục bằng miệng với bạn tình có nhiễm HSV-1 (huyết thanh dương tính) hay quan hệ tình dục với bạn tình có dấu hiệu nhiễm trùng đường sinh dục trong 3 tháng cuối của chu kỳ mang thai.[14][15] Một phụ nữ có huyết thanh dương tính với HSV-1 và HSV-2 có nguy cơ 1-3% truyền bệnh cho đứa con sơ sinh của mình.

Remove ads

Điều trị

Thumb
Các thuốc kháng virus acyclovir

Không có phương pháp nào có thể tiêu diệt được virus herpes từ cơ thể, nhưng những thuốc kháng siêu vi có thể làm giảm tần suất, thời gian, và mức độ nghiêm trọng của bệnh. Các thuốc như ibuprofenacetaminophen có thể làm giảm đau và sốt, các thuốc gây tê tại chỗ như prilocain, Benzocain, lidocain hoặc tetracain cũng có thể làm giảm ngứa và đau.[16][17][18]

Có một số thuốc kháng siêu vi có hiệu quả để điều trị herpes bao gồm: aciclovir, valaciclovir, famciclovir, và penciclovir.[19] Có thể hỗ trợ sử dụng aciclovir và valaciclovir trong điều trị mụn rộp môi hay nhiễm trùng herpes ở những người bị ung thư.[20]

Remove ads

Dịch tễ học

Trên toàn thế giới tỷ lệ nhiễm HSV là khoảng từ 65% đến 90%[21] trong đó HSV1 phổ biến hơn HSV2[22]

Lịch sử

Herpes đã được biết đến ít nhất từ 2.000 năm trước. Hoàng đế Tiberius đã ban bố lệnh cấm hôn nhau tại Roma trong một thời gian do quá nhiều người bị vết loét lạnh. Trong thế kỷ 16, bệnh được đề cập trong vở Romeo và Juliet với những phụ nữ có mụn nước ở môi. Trong thế kỷ 18, bệnh quá phổ biến trong các gái mại dâm nên nó đã được gọi là "căn bệnh nghề nghiệp của phụ nữ".[23]

Xã hội và văn hóa

Một số người có những cảm xúc tiêu cực khi phát hiện mình có một vài dấu hiệu của bệnh, đặc biệt nếu dấu hiệu đó xảy ra ở bộ phận sinh dục, gây nên chứng trầm cảm, lo sợ bị ruồng bỏ, cảm giác bị cô lập, sợ bị phát hiện mình mắc bệnh, tự hủy hoại, và sợ hãi thủ dâm[24], những cảm giác này thường sẽ giảm theo thời gian. Một chiến dịch tuyên truyền bắt đầu vào cuối những năm 1970 và đạt đỉnh đầu những năm 1980 đã gây ra sự kỳ thị và cuồng loạn (hysteria) trong xã hội. Có nhiều bài viết được xuất bản bởi Reader's Digest, US News, và tạp chí Time đã dùng những thuật ngữ để diễn đạt gây sợ hãi và lo lắng cho quần chúng, chẳng hạn như "tấn công", "dịch", "nạn nhân", và "người bị nhiễm".[24]

Theo các khoa học thì thực tế là hầu hết những bệnh nhân đều không có triệu chứng, và số bệnh nhân có những vấn đề sức khỏe do virus gây ra thực sự không chiếm số đông, đa số (khoảng 90%) dân số của trái đất mang HSV-1, 2, hoặc cả hai.[25][26]. Một nhóm hỗ trợ các bệnh nhân nhiễm virus herpes đã được hình thành tại Hoa Kỳ và Anh để cung cấp thông tin về herpes, đăng tin trên những diễn đàn và lập các website hẹn hò cho các người nhiễm HSV.[27]

Remove ads

Chú thích

Liên kết ngoài

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads