Hệ số ảnh hưởng

số đo tầm quan trọng của một tạp chí From Wikipedia, the free encyclopedia

Remove ads

Hệ số ảnh hưởng,[1] hệ số tác động[2] (Impact factor) hay hệ số ảnh hưởng của tạp chí (Journal impact factor),[3] là một số đo phản ánh số lượng trích dẫn trung bình theo năm của các bài báo khoa học của một tạp chí khoa học. IF thường được dùng như là đại diện cho độ quan trọng tương đối của một tạp chí so với các tạp chí khác trong cùng lĩnh vực nghiên cứu chuyên ngành; các tạp chí có IF cao thường được coi là quan trọng hơn các tạp chí có IF thấp. IF do Eugene Garfield, nhà sáng lập Viện Thông tin Khoa học, đề xướng. Bắt đầu từ năm 1975, các tạp chí nằm trong danh sách Journal Citation Reports đều được tính IF theo từng năm.

Remove ads

Cách tính

Hệ số ảnh hưởng của một tạp chí vào một năm bất kì là số lượng trích dẫn mà các bài báo được xuất bản trong vòng hai năm trước đó ở trên tạp chí đó nhận được, chia cho tổng số bài báo được xuất bản trong hai năm trước đó ở trên tạp chí đó:[4]

Ví dụ: tạp chí Nature có hệ số ảnh hưởng là 41.456 trong năm 2014:[5]

Điều này có nghĩa là, trung bình mỗi bài báo xuất bản vào năm 2012 và 2013 tính tới năm 2014 đã nhận được 41 trích dẫn. Chú ý, IF cho năm 2014 thực ra được xuất bản vào năm 2015; IF không được tính cho tới khi tất cả các bài báo xuất bản năm 2014 được xử lý bởi cơ quan lập danh mục (indexing agency).

Các tạp chí mới, nếu đã được liệt kê vào danh mục ngay từ số xuất bản đầu tiên, sẽ nhận được IF sau hai năm ở trong danh mục. Trong trường hợp này, số trích dẫn và số bài báo xuất bản của năm trước Volume 1 sẽ bằng 0. Các tạp chí được liệt vào danh mục không phải từ số đầu tiên sẽ không nhận được IF cho đến khi chúng nằm trong danh mục trong ba năm. Đôi khi Journal Citation Reports gán một hệ số ảnh hưởng cho các tạp chí mới có ít hơn hai năm được liệt vào danh mục dựa trên dữ liệu trích dẫn một phần.[6][7] Việc tính toán luôn luôn sử dụng số liệu đếm được trong hai năm trọn vẹn đã biết, nhưng đối với các tiêu đề tạp chí mới thì một trong các số liệu sẽ là 0. Các ấn bản thường niên hoặc bất thường thỉnh thoảng không xuất bản bất cứ ấn phẩm nào vào một năm đặc biệt nào đó, điều này ảnh hưởng đến số liệu đếm. IF có liên hệ với một khoảng thời gian cụ thể. IF có thể được tính cho một khoảng thời gian bất kì. Journal Citation Reports (JCR) cũng công bố chỉ số IF 5 năm.[8] JCR xếp hạng các tạp chí theo IF theo từng chuyên ngành, ví dụ như chuyên ngành hóa hữu cơ hay khoa tâm thần.

Remove ads

Ứng dụng

IF được dùng để so sánh các tạp chí khác nhau trong cùng một lĩnh vực. Web of Science liệt kê hơn 11.000 tạp chí khoa học.[9][10]

Việc khảo sát IF của các tạp chí mà một người nào đó từng đăng các bài báo khoa học của họ trên đó là việc khả thi. Việc này rất phổ biến, nhưng cũng gây nhiều tranh cãi. Garfield đã cảnh báo về "sự lạm dụng khi đánh giá cá nhân" bởi vì "có sự biến đổi lớn từ bài báo này đến bài báo khác trong cùng một tạp chí ".[11] IF có ảnh hưởng lớn, và gây tranh cãi, đến cách thức một nghiên cứu khoa học được tiếp nhận và được đánh giá.

Một số công ty đang tạo ra các IF giả mạo.[12]

Remove ads

Chỉ trích

Đã có nhiều chỉ trích đối với việc sử dụng chỉ số IF.[13][14][15] Ví dụ như, người ta có thể không tái tạo lại được IF một cách nhất quán khi kiểm nghiệm độc lập.[16] Ngoài ra người ta còn tranh luận về sự hợp lệ của IF với tư cách là thước đo độ quan trọng của một tạp chí và về việc ban biên tập có thể áp dụng nhiều chính sách để tăng mạnh chỉ số IF cho tạp chí của họ (điều này có thể gây hại cho độc giả và tác giả tạp chí đó). Một chỉ trích khác tập trung vào ảnh hưởng của IF lên hành vi của các học giả, biên tập viên, và những người khác có liên quan.[17][18] Nhiều người chỉ trích về nền tảng thể chế (institutional background) của học viện tân tự do (neoliberal academia). Họ cho rằng phải thay thế chỉ số IF bằng một chỉ số khác phức tạp hơn và tranh luận một cách dân chủ về giá trị xã hội của việc đánh giá khả năng và chất lượng nghiên cứu cũng như sự phát triển bấp bênh của nghề nghiên cứu khoa học.[19][20][21]

Tính hợp lệ của thước đo độ quan trọng

Có ý kiến cho rằng IF và phân tích trích dẫn nói chung bị tác động bởi các nhân tố phụ thuộc vào từng chuyên ngành,[22] điều này khiến việc so sánh giữa các chuyên ngành khác nhau hoặc thậm chí giữa các ngành con của cùng một chuyên ngành là không hợp lệ.[23] Phần trăm số trích dẫn xuất hiện trong hai năm đầu tiên kể từ ngày bài báo được xuất bản cũng có sự biến đổi lớn giữa các chuyên ngành, ví dụ từ 1–3% trong toán học và vật lý học đến 5–8% trong các ngành khoa học liên quan đến sinh học.[24] Vì thế, không thể dùng IF để so sánh các tạp chí thuộc các chuyên ngành khác nhau.

Vì số lượng trích dẫn phân bố lệch,[25] nên số lượng trích dẫn trung bình có thể gây hiểu lầm nếu như dùng nó để đo tác động điển hình của một bài báo riêng lẻ trong một tạp chí thay vì để đo tác động tổng hợp của chính tạp chí đó.[26] Ví dụ, khoảng 90% IF năm 2004 của tạp chí Nature chỉ dựa trên 1/4 số bài báo được xuất bản, vì vậy số lượng trích dẫn thực sự cho một bài báo riêng lẻ trong tạp chí này trong đa số trường hợp sẽ nhỏ hơn số trích dẫn trung bình của toàn bộ các bài báo.[27] Hơn nữa, sự liên hệ giữa IF của tạp chí và tỉ lệ trích dẫn của các bài báo bên trong tạp chí đó yếu dần đều kể từ khi các bài báo được số hóa.[28]

Quả thật, đôi khi người ta dùng IF để đánh giá không chỉ các tạp chí mà còn các bài báo trong đó, vì thế làm giảm giá trị của các bài báo về một chủ đề nào đó.[29] Ủy ban Khoa học và Công nghệ Hạ viện Anh đã kêu gọi Hội đồng Quản lý tài trợ giáo dục bậc cao tại Anh nhắc nhở các vị trong các hội đồng Đánh giá nghiên cứu khoa học rằng họ buộc phải đánh giá chất lượng nội dung của các bài báo riêng biệt chứ không phải danh tiếng của tạp chí nơi mà các bài báo đó được đăng.[30] Hiệu ứng ngoại biên có thể thấy với trường hợp bài báo "A short history of SHELX". Bài báo này có câu: "This paper could serve as a general literature citation when one or more of the open-source SHELX programs (and the Bruker AXS version SHELXTL) are employed in the course of a crystal-structure determination". Bài báo này nhận được hơn 6.000 trích dẫn. Dẫn đến IF của tạp chí Acta Crystallographica Section A tăng từ 2,051 năm 2008 lên 49,926 năm 2009, hơn cả tạp chí Nature (IF = 31,434) và Science (IF = 28,103).[31] Bài báo được trích dẫn nhiều thứ nhì trong tạp chí Acta Crystallographica Section A vào năm 2008 chỉ có 28 trích dẫn.[32] Nhất thiết phải lưu ý rằng IF là một thước đo cho tạp chí chứ không nên được dùng để đánh giá từng nhà nghiên cứu hay từng viện nghiên cứu.[33][34]

Các bảng xếp hạng tạp chí dựa trên chỉ một mình IF có mối liên hệ tương đối với các bảng xếp hạng được soạn ra từ các kết quả điều tra survey của các chuyên gia.[35]

A.E. Cawkell, từng là giám đốc nghiên cứu tại Viện Thông tin Khoa học lưu ý rằng Science Citation Index (SCI) (IF dựa trên SCI), ″sẽ hoạt động có hiệu quả nếu mọi tác giả đều trích dẫn các công trình cũ liên quan đến chủ đề của tác giả đó nghiên cứu một cách tỉ mỉ; nếu SCI bao phủ toàn bộ các tạp chí khoa học được xuất bản ở mọi nơi trên toàn thế giới; và nếu SCI không chịu ràng buộc về kinh tế.″[36]

Ảnh hưởng của chính sách biên tập lên IF

Các chính sách biên tập có thể làm tăng IF của một tạp chí.[37][38] Ví dụ, các tạp chí có thể đăng nhiều bài báo tổng quan. Các bài báo dạng này thường được trích dẫn nhiều hơn các báo cáo nghiên cứu.[39] Vì thế các bài bảo tổng quan có thể tăng IF của tạp chí và do đó tạp chí tổng quan thường có IF cao nhất trong chuyên ngành của nó.[18] Ban biên tập một số tạp chí đề ra chính sách chỉ nhận bài "được mời" để mời các nhà khoa học lâu năm và có tiếng tăm đăng các bài báo có thể có được nhiều trích dẫn để tăng IF tạp chí của họ.[18]

Các tạp chí còn tìm cách giới hạn số lượng "bài viết có thể trích dẫn được", tức là, mẫu số trong biểu thức tính IF, bằng cách giảm đăng các bài báo ít có khả năng được trích dẫn (như các báo cáo về các trường hợp cụ thể trong các tạp chí y khoa) hoặc bằng cách thay thế các bài báo (ví dụ, bằng cách không cho đăng các bài tóm tắt (abstract) hoặc danh mục tham khảo với hi vọng rằng Journal Citation Reports sẽ không coi chúng là "các bài viết có thể trích dẫn được"). Và người ta quan sát thấy IF đã thay đổi hơn 300% nhờ áp dụng phương pháp này.[40] Các bài viết được coi là không thể trích dẫn được — và do đó không được gộp vào khi tính IF, cũng có thể, nếu như được trích dẫn, vẫn được gộp vào tử số của biểu thức tính IF mặc dù số trích dẫn đó có thể bị loại trừ một cách dễ dàng. Rất khó đánh giá hiệu ứng này vì sự khác biệt giữa bình luận của ban biên tập và bài báo gốc ngắn (short original article) là không rõ ràng. Ví dụ, thư gửi ban biên tập có thể chỉ một trong hai loại.

Một số tạp chí dùng chiến thuật ít xảo quyệt hơn đó là đăng phần lớn bài báo hoặc ít nhất là các bài có hi vọng được trích dẫn nhiều sớm hơn so với lịch trình sẽ đăng trong năm (đăng sớm). Biện pháp này sẽ giúp tăng thêm thời gian để các bài báo có thể gom thêm trích dẫn. Nhiều biện pháp khác, không cần thiết với ý đồ xấu, đó là trích dẫn các bài báo đã đăng trong chính tạp chí đó để tăng IF cho tạp chí.[41][42]

Ngoài các chính sách biên tập nhằm tăng đột biến IF, các tạp chí có thể công khai đối phó với hệ thống. Ví dụ, vào năm 2007, tạp chí chuyên ngành Folia Phoniatrica et Logopaedica, có IF bằng 0.66, đã đăng một bài báo của ban biên tập trong đó trích dẫn toàn bộ bài báo của tạp chí này từ năm 2005 và năm 2006 để phản đối "tình trạng vô lý của khoa học một số nước" có liên quan đến việc sử dụng chỉ số IF.[43] Lượng trích dẫn lớn đồng nghĩa với IF tạp chí này tăng lên 1.44. Vì việc tăng đột biến này nên tạp chí này đã bị loại ra khỏi Journal Citation Reports vào năm 2008 và năm 2009.[44]

Trích dẫn cưỡng ép là biện pháp mà ban biên tập bắt buộc tác giả phải thêm trích dẫn phụ vào một bài báo trước khi tạp chí đồng ý đăng nó, mục đích là tăng lạm phát IF của tạp chí. Một cuộc khảo sát đăng vào năm 2012 nói rằng trích dẫn cưỡng ép đã được chứng nghiệm bởi một phần năm số nhà nghiên cứu làm trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội học, tâm lý học, và nhiều chuyên ngành kinh doanh, đặc biệt phổ biến với ngành kinh doanh và các tạp chí có IF thấp.[45] Tuy nhiên, các trường hợp trích dẫn cưỡng chế ở các chuyên ngành khoa học khác đôi khi cũng được báo cáo.[46]

Phản hồi

Vì "IF không phải luôn luôn là công cụ đáng tin cậy", vào tháng 11 năm 2007, Hiệp hội Biên tập viên Khoa học châu Âu (EASE) chính thức tuyên bộ khuyến nghị "IF của tạp chí chỉ được dùng thận trọng để đo và so sánh sự ảnh hưởng của tổng thể tạp chí, chứ không dùng để đánh giá từng bài báo riêng lẻ, và chắc chắn không dùng để đánh giá các nhà nghiên cứu hay chương trình nghiên cứu".[14]

Tháng 7 năm 2008, Ủy ban về tự do và trách nhiệm trong khoa học của Hội đồng Quốc tế về Khoa học ban hành tuyên bố về "hoạt động xuất bản, các chỉ số và vai trò của bình duyệt trong đánh giá nghiên cứu", khuyến nghị nhiều giải pháp khả thi, như xem xét một số lượng hạn chế các bài báo xuất bản trong một năm khi đánh giá một nhà khoa học, thậm chí còn phạt nhà khoa học xuất bản quá nhiều trong năm, ví dụ hơn 20 bài báo.[47]

Tháng 2 năm 2010, Quỹ Nghiên cứu Đức công bố hướng dẫn mới nhằm chỉ đánh giá bài báo chứ không đánh giá thông tin trắc lượng thư mục ở các ứng viên được đánh giá trong mọi quyết định liên quan "cấp phát kinh phí dựa trên thành tích nghiên cứu, đánh giá trình độ tiêu chuẩn sau tiến sĩ, đề bạt, hoặc xem xét các đề cương nghiên cứu, trong đó độ quan trọng gia tăng được gắn với các chỉ số định lượng như chỉ số H (h-index) và IF".[48] Quyết định này tương tự với Quỹ Khoa học Quốc gia tại Hoa Kỳ và Đánh giá nghiên cứu khoa học tại Anh.[cần dẫn nguồn]

Để ứng phó với sự quan tâm ngày càng tăng trong việc sử dụng không thích hợp IF của tạp chí trong việc đánh giá đầu ra khoa học và chính các nhà khoa học, Hiệp hội Sinh học tế bào Hoa Kỳ cùng với một nhóm biên tập viên và nhà xuất bản các tạp chí học thuật thành lập Tuyên bố San Francisco về đánh giá nghiên cứu (DORA) vào tháng 5 năm 2013. DORA đã thu hút được sự ủng hộ của hàng ngàn cá nhân và hàng trăm viện nghiên cứu,[49] tính cả Liên minh Đại học nghiên cứu châu Âu (một nhóm gồm 21 trường đại học nghiên cứu ở châu Âu) vào tháng 3 năm 2015,[50] consortium này đã tán thành các tài liệu trên website DORA.

Đại học Montréal, Imperial College London, PLOS, eLife, EMBO Journal, The Royal Society, NatureScience đã đề xuất các chỉ số phân bố trích dẫn nhằm thay thế cho IF.[51][52][53]

Remove ads

Các chỉ số có liên quan mật thiết đến IF

Một số chỉ số được tính và ban hành bởi cùng một tổ chức tính IF là:

  • Cited half-life (nửa đời được trích dẫn): tuổi trung bình của các bài báo được trích dẫn trong Journal Citation Reports hàng năm. Ví dụ, nửa đời (half-life) của một tạp chí vào năm 2005 là 5 có nghĩa là: tính đến năm 2005, số trích dẫn từ năm 2001-2005 chiếm một nửa tổng số trích dẫn từ tạp chí đó, nửa còn lại là trích dẫn trước năm 2001[54]
  • Hệ số ảnh hưởng tổng hợp (Aggregate impact factor) dành cho một chủng loại chủ đề (subject category): khi tính có tính đến số trích dẫn đến tất cả các tạp chí có chủng loại chủ đề đó và số bài báo từ tất cả tạp chí có chủng loại chủ đề đó
  • Immediacy index: bằng số trích dẫn của các bài báo trong một tạp chí vào một năm cụ thể cho trước chia cho số bài báo đã được đăng.
  • CiteScore: chỉ số dành cho các serial title (đề mục hàng loạt) ở trong Scopus, được khởi xướng vào tháng 12 năm 2016 bởi Elsevier.[55][56]

Có một số sắc thái đối với IF: ví dụ, ISI loại bỏ một số loại bài báo nào đó (như các bài báo tin tức, thư tín (correspondence), và errata (bản kê chữ in sai)) ra khỏi phần mẫu số biểu thức tính IF.[57][58][59]

Remove ads

Các cách đo tác động khác

Các tổ chức khác cung cấp các chỉ số đo bổ sung ở cấp tạp chí. Các chỉ số đo này không chỉ áp dụng cho tạp chí, mà còn cho từng nhà khoa học riêng biệt, không như chỉ số đo ở cấp tác giả như H-index (chỉ số H). Chỉ số đo ở cấp bài báo đo tác động ở cấp bài báo thay vì cấp tạp chí. Các chỉ số đo thay thế khác có thể bao gồm số lượt xem bài báo, số lượt tải xuống, hay được nhắc đến trên mạng xã hội.

Remove ads

Giả mạo

Các chỉ số IF giả mạo được tạo ra bởi các công ty không liên kết với Journal Citation Reports.[12] Các chỉ số này thường được các nhà xuất bản lừa đảo sử dụng;[60] Jeffrey Beall có một danh sách các thước đo sai trái như vậy.[61] Một ấn phẩm được Journal Citation Reports liệt kê vào danh mục là điều kiện cần (nhưng không đủ) để ấn phẩm đó có được IF.[62]

Xem thêm

  • Citation impact
  • Scientometrics

Tham khảo

Đọc thêm

Liên kết ngoài

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads