Mê Linh
From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Mê Linh là một địa danh tại miền Bắc Việt Nam. Trong lịch sử, địa danh này được sử dụng cho nhiều đơn vị hành chính khác nhau. Hiện tại, địa danh này được dùng chính thức để chỉ đến xã Mê Linh, một đơn vị hành chính cấp xã thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam.

Nguồn gốc
Ghi chép về Mê Linh trong hai tài liệu cổ nhất của Việt Nam, đều thuộc thời Hậu Lê và cách nhau 44 năm đã mâu thuẫn:[1]
Dư địa chí của Nguyễn Trãi (năm 1434) chép: Mê Linh là Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc bây giờ... huyện Phúc Lộc là Mê Linh ngày xưa.
Đại Việt sử ký toàn thư (năm 1479) chép: Thời Tây Hán trị sở của thái thú (Giao Châu) tại Long Uyên tức Long Biên. Thời Đông Hán tại Mê Linh tức Yên Lãng.
Do đó, ba thế kỷ sau Lê Quý Đôn viết Vân đài loại ngữ (năm 1773) rất lộn xộn, chép Yên Lãng thuộc về ba huyện khác nhau cùng tồn tại trong một thời kỳ: Mê Linh nay là Yên Lãng... Phong Khê là đất Yên Lãng... Chu Diên nay là Yên Lãng.
Cương mục nhà Nguyễn chép: Mê Linh là Phong Châu... ở địa phận hai huyện Phúc Lộc và Đường Lâm
Do đó đã xuất hiện các tranh cãi, một số cho rằng Mê Linh ở phía nam sông Hồng và số khác cho là ở phía bắc.[2] Ở huyện Yên Lãng cũng có làng Hạ Lôi nhưng không có tên Nôm.
Từ năm 1973-1990, nhà nghiên cứu Đinh Văn Nhật [3] sử dụng phương pháp địa lý học lịch sử để nghiên cứu về các địa danh thời Hai Bà Trưng. Ông sau đó kết luận huyện Mê Linh nằm ở phía nam sông Hồng. Các bài viết của ông đều được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Trong các chuyến khảo sát có GS. Lê Văn Lan, GS. Văn Tân và nhiều nhà sử học khác đã phát hiện các địa danh làng Hạ Lôi (tên nôm là Kẻ Lói, có rất nhiều sự tích về Hai Bà Trưng), Kim Khê (tức căn cứ Cấm Khê), làng Nam Giao (tức Giao Chỉ ở phía Nam, đàn tế trời của nước ta) đều ở huyện Thạch Thất. Ngay cạnh đó là Thành Quèn (huyện Quốc Oai) có tính chất cư trú thời Đông Hán.[4]
Trong hội nghị khoa học về Hai Bà Trưng do Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội tổ chức ngày 3/3/1982 tại Đền Đồng Nhân, Mê Linh được xác định ở phía nam sông Hồng.[5]
Còn huyện Yên Lãng vốn là đất huyện Tây Vu với trung tâm là Cổ Loa của con cháu Thục Phán, sau đó tách thành Phong Khê và Vọng Hải. Làng Hạ Lôi ở đây có thể là di dân sau khi Hai Bà Trưng bại trận bởi Hậu Hán Thư [6] quyển 86 phần Tây Nam di liệt truyện chép "Bắt hơn 300 kẻ cầm đầu dời đi Linh Lăng. Vùng Lĩnh Biểu coi như bình định" cho thấy có sự thay đổi lớn về dân cư. Nhiều người bị tù đày và buộc đi khỏi nơi sinh sống lâu đời trước đó, rồi lập nên một làng Hạ Lôi mới ở bên kia sông Hồng.
Một giả thiết khác có thể Hạ Lôi vốn nằm ở phía nam sông Hồng, thuộc huyện Đan Phượng, tức huyện Chu Diên xưa. Theo thần tích làng Nại Tử xã Hồng Hà thì ông Thi Sách - chồng bà Trưng Trắc - là người làng này. Năm 1971 trận lụt lịch sử đồng bằng sông Hồng đã khiến cả làng bị mất đất và năm 1972 thì đi xây dựng kinh tế mới ở sông Mã, Sơn La.[7] Theo Việt điện U linh và Lĩnh Nam chích quái thì Hai Bà đóng đô ở thành Ô Diên, sau là thành trì của Hậu Lý Nam Đế, nay còn dấu tích ở xã Hạ Mỗ. Có thể lũ lụt cũng khiến Hạ Lôi bị dạt sang bờ bắc (Hạ Lôi này ở ngay ven đê tả). Các sự việc tương tự ở thời hiện đại vẫn được ghi nhận như xã Tân Đức vốn thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội đã dạt sang bên kia sông rồi được sáp nhập về Việt Trì, Phú Thọ năm 2008 [8]. Hay xã Tự Nhiên vốn thuộc Khoái Châu, Hưng Yên nhưng cũng do phù sa đổi dòng mà từ thời Nguyễn đã thuộc về huyện Thường Tín, Hà Nội.[9] Do đó Đền Hạ Lôi và các đền ở Yên Lãng đều thờ chung cả ông Thi Sách, còn Đền Hát Môn chỉ thờ Hai Bà.
Remove ads
Những thay đổi trong lịch sử
Xem thêm
Chú thích
Tham khảo
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads
