Người Khmer (Việt Nam)
nhóm dân tộc thiểu số tại Miền Nam của Việt Nam From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Người Khmer tại Việt Nam là bộ phận dân tộc Khmer ở Việt Nam, người Khmer là dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
Người Khmer được công nhận là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Tên gọi
Trong khi các thư tịch cũ của người Việt dùng danh từ Cao Miên (高棉) hay Cao Man (高蠻) để nói đến người Campuchia.
Chỉ thị số 117-CT/TƯ ngày 29 tháng 9 năm 1981 của Ban bí thư trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và Chỉ thị số 122-CT ngày 12 tháng 5 năm 1982 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam về "Công tác đối với đồng bào Khmer" quy định thống nhất dùng tên gọi dân tộc Khmer, người Khmer, không được dùng những tên gọi không chính xác hoặc có hàm ý miệt thị hoặc dùng để miệt thị phân biệt như người Miên, người Việt gốc Miên, người Man v..v...[1]. Khẳng định rằng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam chỉ có dân tộc Khmer còn các tên gọi khác là sai và không hợp lý. Lên án và phê phán những hành vi cố ý đùa giỡn nhằm mục đích miệt thị phân biệt của bất cứ cá nhân tổ chức nào.
Remove ads
Ngôn ngữ
Người Khmer ở Việt Nam nói tiếng Khmer và tiếng Việt.
Dân số và địa bàn cư trú

Ở Việt Nam, người Khmer là dân tộc bản địa có lịch sử định canh định cư rất lâu dài sống chủ yếu ở miền Nam Việt Nam đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long thuộc các tỉnh, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, được gọi là Khmer Krom (có nghĩa là Hạ, Dưới trong tiếng Khmer) để phân biệt với người Khmer Campuchia.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Khmer ở Việt Nam có dân số 1.319.562 người, có mặt tại nhiều tỉnh ở Nam Bộ.
Sau đây là danh sách các tỉnh có nhiều người Khmer nhất:
- Sóc Trăng (362.029 người, chiếm 30,7 % dân số toàn tỉnh và 31,5 % tổng số người Khmer tại Việt Nam).
- Trà Vinh (318.231 người, chiếm 31,6 % dân số toàn tỉnh và 25,2 % tổng số người Khmer tại Việt Nam).
- Kiên Giang (211.282 người, chiếm 12,5 % dân số toàn tỉnh và 16,7 % tổng số người Khmer tại Việt Nam),
- An Giang (75.878 người),
- Bạc Liêu (73.968 người),
- Bình Dương (65.233 người)[2], phần lớn là lao động di cư, có cộng đồng dân tộc Tà Mun tại An Bình, Phú Giáo chưa được công nhận chính thức.
- Thành phố Hồ Chí Minh (50.422 người),
- Cà Mau (26.110 người),
- Đồng Nai (23.560 người)
- Vĩnh Long (22.630 người),
- Cần Thơ (19.683 người),
- Bình Phước (19.315 người),
- Hậu Giang (18.467 người),
- Long An (9.980 người)
- Tây Ninh (9.932 người)
Tôn giáo
Hầu hết người Khmer ở Việt Nam là tín đồ Phật giáo Nam tông Khmer - một truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ hòa trộn nhiều thành phần của Ấn Độ giáo, thuyết vật linh (tục thờ cúng thần sông núi, cây cỏ....), và tục thờ cúng tổ tiên.
Văn hóa
Cũng giống như người Khmer ở Campuchia người Khmer ở Việt Nam đều gìn giữ và phát huy nền văn hóa lâu đời của mình, một số lễ hội chính của người Khmer:
- Lễ hội Pchum Ben (tên gọi ở Campuchia) hay lễ hội Sen Đôn ta Đây là lễ báo hiếu ông bà, mang ý nghĩa gần giống với lễ Vu Lan ở Việt Nam. Đặc biệt trong lễ Sen Đôn ta ở vùng An Giang, hằng năm diễn ra một hoạt động rất nổi tiếng là lễ hội đua bò Bảy Núi.
- Tết Chol Chnam Thmay là tết mừng năm mới của người Khmer thường bắt đầu vào tháng 4 dương lịch, ở các nước ảnh hưởng văn hoá Khmer và Phật giáo Ấn như Thái Lan, Lào, Miến Điện cũng có ngày tết tương tự. Trong tết có 3 ngày lễ chính, sẽ có 1 ngày gọi là ngày Songkran.
- Ok-om-bok (lễ cúng trăng). Trong tháng lễ có các hoạt động đua ghe ngo truyền thống có quy mô lớn như tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng và vào ngày cuối cùng của đêm lễ Ok-om-bok sẽ diễn ra nghi thức thả đèn trời, thả hoa đăng.
- Bon Om Touk (lễ đua ghe): diễn ra hàng năm vào ngày rằm tháng 11 trùng với cuối mùa mưa.
Các lễ hội Phật giáo:
- Song-ka-tun (Trai Tăng)
- Ka-thina (Dâng Y)
- Maggha Bochea (Rằm tháng Giêng)
- Vesakha Bochea (Rằm tháng Tư)
- Vassa (An cư kiết hạ)
Remove ads
Xung đột vũ trang và vận động chính trị
Cuối năm 1960 ở Nam Vang người Khmer Krom thành lập Mặt trận Giải phóng, chủ trương tấn công Việt Nam Cộng hòa . Chau Dera làm chủ tịch, với hai yêu sách chính:[3]
Ngày 27 Tháng 8, 1963 Norodom Sihanouk tuyên bố đoạn giao với Việt Nam Cộng hòa nhằm gây áp lực tranh đấu. Chính quyền Nam Vang còn giúp cơ sở vật chất và ngoại giao cho FLKK. Cuối năm 1963 lực lượng này sáp nhập với Mặt trận Giải phóng Champa và Mặt trận Giải phóng Kampuchea phía Bắc (Front de Libération du Kampuchea Nord FLKN) thành khối FULRO, mở rộng địa bàn hoạt động từ đồng bằng sông Cửu Long lên Cao nguyên Trung phần và đến tận Phú Yên[4].
Sau năm 1975 vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa người Việt và người Khmer bị cuốn vào Chiến tranh Việt Nam-Campuchia giữa các lãnh tụ ở Hà Nội và Phnôm Pênh và tiếng nói người Khmer Krom lu mờ. Tuy nhiên sang thế kỷ 21 người Khmer Krom lại phát động phong trào đòi chính quyền Việt Nam phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tự do sắc tộc và công nhận địa vị tiên khởi của người Khmer Krom ở đồng bằng sông Cửu Long.[5]
Remove ads
Những nhân vật Khmer nổi tiếng
Remove ads
Hình ảnh
- Đám cưới người Khmer, Trà Vinh
- Ban nhạc ở đám cưới Khmer, Trà Vinh
- Bạn trẻ người Khmer, Trà Vinh
- Kiến trúc chùa Khmer
- Các sư Khmer đọc kinh chúc phúc trong lễ cưới
- Cô dâu châm thuốc cho chú rể theo nghi thức lễ cưới truyền thống
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads