Nguyễn Xuân Sanh

nhà thơ, dịch giả Việt Nam (1920 – 2020) From Wikipedia, the free encyclopedia

Nguyễn Xuân Sanh
Remove ads

Nguyễn Xuân Sanh (19202020) là nhà thơ, dịch giả Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001. Ông là người bắc nhịp cầu đầu tiên từ Thơ mới sang thơ hiện đại.

Thông tin Nhanh Thông tin cá nhân, Sinh ...
Remove ads

Tiểu sử

Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920 tại Đà Lạt. Cha ông là một nhà nho ở Quảng Bình, sau di cư vào Đà Lạt, nên ông đã ra đời ở đây. Nguyễn Xuân Sanh học trung học và đại học ở Hà Nội.

Trước Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước. Sau đó, trong chiến tranh kháng Pháp, ông tham gia Đoàn văn nghệ liên khu IV, phụ trách tạp chí Sáng tạo.

Từ năm 1950, ông ra Việt Bắc tham gia Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam và Tiểu ban Văn nghệ của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957), ông lần lượt được cử làm Ủy viên Ban chấp hành hội các khóa I, II và III.

Từ năm 1966 đến 1975, ông làm Hiệu trưởng Trường Bồi dưỡng những người viết văn Trẻ và làm Chủ tịch Hội đồng Văn học dịch...

Ông mất ngày 22 tháng 11 năm 2020 tại Hà Nội, hưởng thọ 100 tuổi. Ông là thi sĩ cuối cùng của phong trào Thơ Mới qua đời.[1]

Remove ads

Sự nghiệp

Ông làm thơ sớm, năm 16 tuổi, đã có truyện thơ Lạc loài đăng nhiều kỳ trên báo.

Năm 1939, ông cùng với các văn nghệ sĩ cùng chí hướng sáng tạo, gồm các nhà văn, nhà thơ: Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Lương Ngọc; họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát thành lập nhóm Xuân Thu nhã tập. Đến tháng 6 năm 1942, thì nhóm ấy xuất được một tập sách có cùng tên là Xuân Thu nhã tập (do Xuân Thu thư lâu xuất bản), gồm một số bài thơ, văn xuôi triết lý và tuyên ngôn nghệ thuật của nhóm [2].

Ông đã có tới hai sáng tác được đưa vào sách giáo khoa: bài “Nhớ dừa” trong sách giáo khoa Tập đọc lớp 4 những năm 50 thế kỷ trước và bài “Cô giáo lớp em” trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học đầu những thập niên 2000.[3]

Nguyễn Xuân Sanh không chỉ là người bắc nhịp cầu đầu tiên từ Thơ mới sang thơ hiện đại, ông còn có đóng góp lớn trong việc cách tân thơ, đào tạo nhiều nhà văn, dịch giả trẻ, giới thiệu nhiều tác gia văn học lớn của thế giới với bạn đọc trong nước.[4]

Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001 với các tập thơ: Tiếng hát quê ta, Sáng thơ, Nghe bước xuân về, Đất nước và lời caTuyển tập Nguyễn Xuân Sanh.

Remove ads

Tác phẩm chính

Thơ

  • Xuân Thu Nhã Tập (thơ đồng chủ biên, 1942)
  • Nhận ruộng (1945)
  • Chiếc bong bóng hồng (1957)
  • Tiếng hát quê ta (1955)
  • Nghe bước xuân về (1961)
  • Quê biển (1966)
  • Sáng thơ (1971)
  • Đảo dưa hấu (1974)
  • Đất nước và lời ca (1978)
  • Tuyển tập Nguyễn Xuân Sanh (1991)
  • Đất thơm (tập thơ văn xuôi, viết 1940-1945, in 1995)
  • Một vườn thơ năm châu (1997)

Thơ dịch

  • Thơ Liên Xô (1962)
  • Thơ Pêtôphi (1962)
  • Thơ Inđônêxia (1964)
  • Thơ Mickiêvich (1966)
  • Thơ Enđrê Ađy (1977)
  • Thơ Vapxarôp (1981)
  • Thơ Victo Huygô (1986)
  • Thơ Trantômer (Thụy Điển, 1993)
  • Tuyển tập thơ Pháp (3 tập, 1989-1994)
  • Thơ đương đại (1966)
  • Thơ Bagriana (1994, dịch chung)
  • Thơ Êluya (1995, dịch chung)

Ngoài ra, còn sáng tác thơ cho thiếu nhi.

Vinh danh

  • Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật 2001
  • Huân chương công trạng (1982) của Nhà nước Ba Lan.[5]

Giải thưởng văn học

  • Giải thưởng ngoại hạng Hội Nhà văn Việt Nam (1951-1952) cho tác phẩm “Anh hùng Trần Đại Nghĩa

Đánh giá

Remove ads

Chú thích

Tham khảo

Liên kết ngoài

Xem thêm

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads