Nhà hát nghệ thuật truyền thống tỉnh Ninh Bình

From Wikipedia, the free encyclopedia

Remove ads

Nhà hát nghệ thuật truyền thống tỉnh Ninh Bình chính thức thành lập ngày 28 tháng 7 năm 2025 trên cơ sở hợp nhất các đơn vị: Nhà hát Chèo Ninh Bình, Nhà hát Chèo Hà Nam, Nhà hát nghệ thuật truyền thống Nam Định. Đây là nhà hát có quy mô lớn sau khi sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025.

Quá trình hình thành

Ngày 28 tháng 7 năm 2025, UBND tỉnh Ninh Bình có Quyết định số 27/2025/QĐ-UBND Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Ninh Bình thuộc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình. Theo đó Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Ninh Bình là đơn vị sự nghiệp công lập; có chức năng tổ chức biểu diễn nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật và giải trí của nhân dân; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua hoạt động nghệ thuật biểu diễn; thực hiện cung cấp dịch vụ sự nghiệp công và phục vụ quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn theo quy định của pháp luật.

Quyết định này cũng bãi bỏ các quyết định:

  • Quyết định số 46/2022/QĐ-UBND ngày 28 tháng 9 năm 2022 của Sở Văn hóa và Thể thao Ninh Bình Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Nhà hát Chèo Ninh Bình thuộc Sở Văn hoá và Thể thao tỉnh Ninh Bình;
  • Quyết định số 586/QĐ-UBND ngày 27 tháng 12 năm 2024 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Nam Định thuộc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định;
  • Quyết định số 2075/QĐ-UBND ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam hợp nhất Nhà hát Chèo Hà Nam với Trung tâm Văn hóa tỉnh thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Nam thuộc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Nam.
Remove ads

Cơ cấu tổ chức

Nhà hát nghệ thuật truyền thống tỉnh Ninh Bình có trụ sở nằm trong công trình nhà hát Phạm Thị Trân ở Lê Đại Hành, phường Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Nhà hát nằm liền kề Trung tâm văn hóa tỉnh Ninh Bình, rạp chiếu phim Ninh Bình cùng di tích đền Vân Thị thờ bà tổ hát chèo Phạm Thị Trân.

Ban giám đốc[1]
  • Giám đốc: Đạo diễn - NSND Quang Thập (Nguyễn Văn Thập)
  • Phó giám đốc: NSND Mai Thị Thủy
  • Phó giám đốc: NSUT Nguyễn Khắc Hiển
  • Phó giám đốc: NSUT Dương Thị Thanh Vân
  • Phó giám đốc: NSUT Nguyễn Thị Diệu Hằng
  • Phó giám đốc: NSUT Nguyễn Thùy Linh
  • Phó giám đốc: NSUT Phạm Văn Bình
Các đơn vị trực thuộc
  • Đoàn Chèo;
  • Đoàn Kịch nói;
  • Đoàn Cải Lương;
  • Đoàn Nghệ thuật Rối;
  • Phòng Hành chính:
  • Phòng Tổ chức biểu diễn và sự kiện
  • Phòng Nghệ thuật:
Remove ads

Lịch sử hình thành

Nghệ thuật Chèo ở Ninh Bình

Vùng đất kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình từ thời nhà Đinh xưa đã là quê hương của nghệ thuật sân khấu Chèo, hiện nơi đây vẫn là một trong những cái nôi ChèoViệt Nam. Chèo phát triển trong cung đình từ thế kỷ X đến thế kỷ XV thì được trả hoàn toàn về với nông dân ở Tứ chiếng chèo. Ninh Bình thuộc chiếng chèo xứ Nam. Chèo xứ Nam có những làn điệu đặc trưng như: Chèo quế hay điệu hạ vị tả cảnh du thuyền thăm cảnh đẹp cửa Thần Phù, núi Cánh Diều, chùa Non Nước ở Ninh Bình, Bà chúa con cua gắn với tín ngưỡng chầu văn, Nhịp đuổi gắn với tích trấn thủ Lưu Đồn hay các làn điệu độc đáo xứ Nam như Đò đưa, Đường trường thu không, Đường trường tải lương, Tình thư hạ vị,...

Trên địa bàn Ninh Bình ngày nay đã hình thành và phát triển rất nhiều các vùng chèo, câu lạc bộ chèo tiêu biểu như ở các vùng quê Yên Khánh, Yên Mô, Ý Yên, Vụ Bản, Kim Sơn, Hoa Lư. Các cố nghệ nhân chèo nổi tiếng xưa là người Ninh Bình như: nghệ nhân An Văn Mược, Nghệ nhân Phạm Hồng Lô là đồng tác giả biên kịch hai trong số bảy vở chèo kinh điển của Việt Nam là Quan Âm Thị Kính và vở chèo cổ Kim Nham. Từ hai vở chèo kinh điển này đã tạo ra rất nhiều các làn điệu chèo cổ. Đóng góp cho chèo Ninh Bình còn phải kể tới Nghệ nhân dân gian, NSUT Hà Thị Cầu với bằng khen năm 1998 của Đài Tiếng nói Việt Nam và giải đặc biệt "Nghệ nhân hát chèo tỉnh Ninh Bình" trong Liên hoan Trích đoạn tuồng chèo hay toàn quốc.

Ninh Bình là quê hương của những nghệ sĩ Chèo nổi tiếng hiện nay như: NSND Doãn Hoàng Giang, NSND Thúy Mùi; NSND Thúy Ngần; Nhạc sĩ, NSND Hạnh Nhân; NSND Mai Thủy[2]; NSND Trương Mạnh Thắng (Phó Giám đốc Nhà hát Chèo Hải Dương); NSUT Thùy Dung (Nhà hát Chèo Việt Nam)[3], NSND Quang Thập; NSUT Huyền Diệu; NSƯT Phạm Quốc Nha (Nhà hát Chèo Ninh Bình); NSUT Thảo Quyên; NSƯT Minh Huệ (chèo Hà Nội); Các Nghệ nhân ưu tú nghệ thuật chèo như: NNƯT Phạm Ngọc Giới, NNƯT Vũ Văn Phó, NNƯT Vũ Xuân Năng, NNƯT Phạm Thị Điền, NNƯT Lại Thế Vũ, NNƯT Nguyễn Mạnh Hùng, NNƯT Vũ Minh Hượi...

Các làng chèo nổi tiếng Ninh Bình có: Khánh Cường, Khánh Trung, Khánh Mậu, Khánh Lợi.[4] Khánh Thịnh, Yên Phong, Yên Nhân, Yên Hòa, Yên Mạc.[5] Yên Phong, Yên Trị, Yên Chính, Yên Thọ, Yên Cường, An Lộc Hạ, Quang Sán, Hào Kiệt, Điền Xá, ,...[6] Phường Hoa Lư đã xây dựng Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể chiếu chèo thôn Văn Lâm để phục vụ du lịch.

Nhà hát Chèo tỉnh Ninh Bình

  • Năm 1959, Đoàn văn công Sông Vân được thành lập với nhiệm vụ chính là tuyên truyền, cổ vũ phong trào thi đua lao động sản xuất, chiến đấu của tỉnh Ninh Bình. Với lực lượng nòng cốt ban đầu là những cán bộ làm công tác thông tin địch vận, các tác phẩm là những hoạt cảnh có nội dung tuyên truyền... Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh, Đoàn văn công Sông Vân có sự thay đổi về tên gọi để phù hợp với tình hình như: Đoàn chèo Sông Vân, Đoàn chèo Ninh Bình, Đoàn văn công Ninh Bình...[7] Đoàn còn vào các chiến trường Bình Trị Thiên, Tây Nguyên, sang Lào... để phục vụ bộ đội và nhân dân.
  • Từ năm 1982 đến 1991, Đoàn chèo Ninh Bình sáp nhập với Đoàn chèo Nam Hà để thành lập Đoàn chèo Hà Nam Ninh. Thời kỳ này, Đoàn chèo Hà Nam Ninh đã gây được tiếng vang tại các hội diễn toàn quốc qua các vở diễn tiêu biểu như vở diễn "Những người nói thật" của tác giả An Viết Đàm, nghệ sĩ Kim Khuyên đạt huy chương vàng, NS Lâm Bình đạt huy chương bạc...
  • Năm 1992, tỉnh Ninh Bình được tái lập, 24 cán bộ, nghệ sĩ, diễn viên thuộc các lĩnh vực: chèo, ca múa nhạc, cải lương, kịch nói của Đoàn Hà Nam Ninh, là con em quê hương Ninh Bình đã trở về hoạt động biểu diễn nghệ thuật, tái lập lại đoàn nghệ thuật chèo Ninh Bình. Vở diễn đầu tiên sau 17 năm chia tách được Đoàn dàn dựng thành công là vở chèo "Tấm áo bào Hoàng đế". Trung bình mỗi năm, Đoàn đã biểu diễn trên 120 buổi phục vụ khoảng 180.000 lượt khán giả. Năm 2012 đoàn tham gia 176 buổi diễn.[8]

Nhà hát Chèo Hà Nam

Tiền thân của nhà hát Chèo Hà Nam là Đoàn chèo Hà Nam được thành lập từ 1958. Mười năm sau, 1968 được sáp nhập với Đoàn chèo Nam Định thành Đoàn chèo Nam Hà, rồi Đoàn chèo Hà Nam Ninh. Tuy nhiên, hành trình đổi mới của Đoàn chèo Hà Nam được đánh dấu bằng sự kiện tỉnh Hà Nam Ninh tách thành hai tỉnh Nam Định và Hà Nam. Ba tháng sau, tức tháng 4 năm 1997, Đoàn chèo Hà Nam có quyết định tái thành lập. Khi đó toàn đoàn chỉ có 12 người trên đủ các lĩnh vực cải lương, ca múa, kịch nói, chèo, được tập hợp và với một cơ sở vật chất quá nghèo nàn... Nòng cốt của đoàn khi mới tái lập chỉ có ba người đã từng là diễn viên chèo: Lương Duyên, Huy Toàn, Tuyết Lan. Các diễn viên khác chỉ hoặc là biết diễn kịch, hoặc là hát mới, hoặc là biết ca cải lương và chưa từng biết hát chèo, diễn chèo.[9]

Sau 5 năm, nghệ sĩ Huy Toàn lên trường Đại học sân khấu điện ảnh làm giảng viên, một số diễn viên trẻ sang đoàn chèo Tổng cục Hậu cần và đoàn chèo Ninh Bình.

Bên cạnh những vở diễn mang đề tài danh nhân truyền thống, lịch sử quê hương như: Bài thơ treo dải yếm đào, Tiếng trống bồ đề; Vua đi cày; Tỉnh rượu lúc tàn canh; Bùi Viên cư sĩ... còn phải kể đến các vở chèo truyền thống như: Lưu Bình Dương Lễ; Súy Vân; hoặc các vở đề tài dân gian, hiện đại: Dòng suối cội nguồn; Người nhà quê; Cõi thế đa đoan; Hoa đồng nội và Đợi đến mùa xuân... Với một phong cách biểu diễn giản dị, nhưng lãng mạn, hiện thực mà tinh tế, vở diễn của đoàn được khán giả chào đón nồng nhiệt. Chương trình ca hát dân gian của đoàn cũng đã được dàn dựng khá công phu do chính Trưởng đoàn chỉ đạo nghệ thuật NSUT Lương Duyên dàn dựng với các tiết mục hát dân ca thấm đẫm chất trữ tình, hát chầu văn; cả nhiều giá hát chầu - đặc sản của Hà Nam cũng đã được khai thác, đưa thành những tiết mục biểu diễn ngợi ca tình yêu, khát khao chung thủy, hướng tới các giá trị Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc sống.

Những năm gần đây, đoàn đã có một trụ sở làm việc khá khang trang gồm 2 tầng, tầng 1 là trụ sở làm việc, tầng 2 là sàn tập của diễn viên, nhạc công đồng thời cũng là nơi biểu diễn chiếu chèo Hà Nam. Năm 2010, đội ngũ của đoàn cũng mới chỉ có 27 biên chế, 7 hợp đồng và một lớp học sinh trung cấp gồm 20 em.

Ngày 25 tháng 10 năm 2010 theo Quyết định số 1169/QĐ-UBND của UBND tỉnh Hà Nam, Nhà hát chèo Hà Nam được thành lập trên cơ sở nâng cấp Đoàn nghệ thuật chèo Hà Nam

Nhà hát nghệ thuật truyền thống Nam Định

Tháng 10-1959, Đoàn nghệ thuật Chèo Nam Định (thời kỳ đỉnh cao là Nhà hát Chèo Nam Định) được thành lập. Giai đoạn 1966-1981, Đoàn nghệ thuật Chèo Nam Định hợp nhất với Đoàn Chèo Hà Nam thành Đoàn Chèo Nam Hà. Giai đoạn 1982-1992 hợp nhất với Đoàn Chèo Ninh Bình thành Đoàn Chèo Hà Nam Ninh. Tháng 3-1992, chia tách tỉnh Hà Nam Ninh, Đoàn Chèo Nam Hà được thành lập. Năm 1997, tiếp tục chia tách tỉnh Nam Hà, Đoàn lấy tên Đoàn Chèo Nam Định.

Năm 2006, UBND tỉnh Nam Định quyết định nâng cấp Đoàn Chèo Nam Định thành Nhà hát Chèo Nam Định.[10] Năm 2015, Nhà hát Chèo Nam Định có 53 cán bộ, nghệ sĩ, diễn viên, trong đó, có 40 biên chế, 13 hợp đồng, hầu hết là thế hệ nghệ sĩ trẻ.[11]

Năm 2019, Nhà hát Chèo Nam Định hợp nhất cùng Đoàn Cải lương, Đoàn Kịch nói và đổi tên thành Đoàn Chèo Nam Định thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Nam Định.

Remove ads

Tham khảo

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads