Phim hoạt hình

hình thức sử dụng ảo ảnh quang học và sự chuyển động do nhiều hình ảnh tĩnh được chiếu tiếp diễn liên tục From Wikipedia, the free encyclopedia

Phim hoạt hình
Remove ads

Phim hoạt hình hay phim hoạt họa là một hình thức sử dụng ảo ảnh quang học về sự chuyển động do nhiều hình ảnh tĩnh được chiếu tiếp diễn liên tục. Trong phim và trong kỹ nghệ dàn dựng, hoạt họa ám chỉ đến kỹ thuật trong đó từng khung hình của phim (frame) được chế tác riêng rẽ. Người ta có thể dùng máy tính, hay bằng cách chụp từng hình ảnh đã vẽ hay những mô hình được tạo thủ công một cách liên tục, đã được tô màu, hoặc bằng cách chụp những cử động rất nhỏ của các mô hình để tạo nên những hình ảnh này (xem thêm về hoạt họa dùng mô hình đất séthoạt hình tĩnh vật. Những hình ảnh sau đó được chụp bằng một máy quay phim hoạt họa chuyên ngành. Khi tất cả các hình ảnh được ghép vào với nhau, tạo nên một đoạn phim và được chiếu lên màn ảnh, chúng gây nên ảo giác là các cử động được chuyển động liên tục. Ảo giác này gây ra do hiện tượng gọi là sự lưu ảnh. Để làm được những phim như vậy đòi hỏi phải tốn rất nhiều công sức và sức chịu đựng dai dẳng những công việc tẻ nhạt. Hiện nay, nhờ sự phát triển trong hoạt họa máy tính, tốc độ quá trình sản xuất phim đã được tăng lên rất nhiều.

Thumb
Hoạt hình của quả bóng nảy lên xuống (dưới đây) bao gồm 6 hình.

Những định dạng tập tin hình ảnh như GIF, MNG, SVGFlash (SWF) cho phép phim hoạt họa được chiếu trên máy tính thông qua đường Internet.

Remove ads

Các kỹ thuật làm phim hoạt họa

Thumb
Tốc độ 12 hình trong một giây là tốc độ mà các phim hoạt họa dùng hoạt hình (animated cartoon) thực hiện.
Thumb
ThumbHình trên: Hoạt hình này được nhắc lại 10 hình trong một giây.
Hình dưới: Hoạt hình này chuyển động với tốc độ 2 hình trong một giây. Với tốc độ này, chúng ta hầu như có thể phân biệt được từng hình một

Hoạt họa truyền thống bắt đầu với từng hình ảnh đã được vẽ và tô màu rồi sau đó mới chụp chúng vào phim. Trong thập niên kỷ 1910, hai ông John Randolph Bray (1879-1978) và Earl Hurd (1880-1940) đã tạo dựng nên kỹ thuật hoạt hình trên phim xenluloit (celluloid) để tăng nhanh tốc độ quá trình làm phim bằng cách vẽ các nhân vật phim trên các miếng nhựa trong, hầu cho nhân vật có thể được chuyển động mà không cần phải vẽ lại cảnh đằng sau cho mỗi hình một. Gần đây, phong cách làm phim hoạt họa dựa trên cơ sở của việc tô màu và vẽ hình đã được tiến bộ hóa. Bộ phim hoạt họa đơn giản Simpsons hay bộ phim phác thảo Người tuyết (The Snowman) là những ví dụ.

Hoạt họa máy vi tính được tiến bộ một cách nhanh chóng và hiện nay, các nhân vật có thể được tạo hình giống như người thật, đến nỗi người xem khó có thể phân biệt chúng với diễn viên. Kỹ thuật hoạt họa này được thực hiện bằng cách chuyển hình vẽ từ chỉ có hai chiều (2D) sang hình ba chiều (3D). Cái khác nhau giữa chúng là trong hoạt họa hình vẽ hai chiều, hiệu ứng về chiều sâu được sáng tạo tùy theo cảm hứng nghệ thuật, song trong hoạt họa ba chiều, các đối tượng ba chiều được mô hình trong một không gian ba chiều do máy tính kiến tạo, và chúng được 'chiếu sáng' và 'quay' từ một góc độ chọn trước[1], tương tự như trên hiện trường, trước khi chúng được 'diễn hình' (tạo ra hình ảnh từ công thức) ra từng hình đồ họa bitmap hai chiều một. Những dự đoán cho rằng các diễn viên nổi tiếng đã qua đời có thể được 'tái sinh' để diễn trong các bộ phim mới, hiện nay gây không ít suy xét đến các vấn đề đạo đức và vấn đề về bản quyền có liên quan. Việc sử dụng hoạt họa máy tính để đạt được những hiệu ứng, hầu như bất khả dĩ trong lối quay phim truyền thống, đã dẫn đến thuật ngữ "tạo hình máy tính", song thuật ngữ này không giúp người ta phân biệt được sự khác nhau giữa hoạt họa dùng máy tính, với việc ám chỉ đến những bộ phim ba chiều hoàn toàn sử dụng kỹ thuật hoạt họa.

Hoạt họa máy tính bao gồm việc tạo mô hình, tạo động tác, sau đó cho thêm bề mặt và cuối cùng là kết xuất. Bề mặt của các mô hình được bố trí để chúng có thể tự co giãn và tự bẻ cong, thích ứng với những chuyển động của một 'mô hình khung lưới'. Việc diễn hình sau cùng biến đổi những động tác này thành một hình ảnh đồ họa bitmap. Những phát triển gần đây trong kỹ thuật diễn hình những bề mặt phức tạp, như lông và các chất liệu bề mặt khác đã cho phép người ta tạo nên những môi trường và những mô hình nhân vật hết sức giống với cảnh thật, bao gồm cả các bề mặt nhấp nhô, gấp lại và bay trong gió, với từng sợi tóc một được tính toán trong khi diễn hình.

Bên cạnh đó, những chuyển động giống như thật lại phải do các nghệ sĩ điêu luyện sáng tạo thì mới thành công, và họ có thể làm việc này với ngay cả những mô hình đơn giản nhất. Máy tính không khác gì một dụng cụ vẽ hình phức tạp và đắt tiền, tương tự như một cái bút chì mà người ta dùng để vẽ, và ngay cả trong trường hợp nếu người ta có một chương trình ứng dụng mô phỏng vật lý phức tạp được kiến tạo hoàn hảo đến mức nó có thể mô phỏng cuộc sống thực trên thế giới một cách hoàn thiện đi chăng nữa, song nếu không có bàn tay của các nghệ sĩ hoạt họa điều hướng, thì các hình ảnh được tạo ra có lẽ cũng chẳng có tác động gì vào tình cảm người xem cả. Ảnh hưởng này phần lớn là do các nghệ thuật trong phim hoạt họa được phát sinh bắt nguồn từ chính sự lựa chọn đầy tính nghệ thuật của các nghệ sĩ làm phim hoạt họa mà ra, và máy tính hoàn toàn không thể tự nó quyết định được việc gì.

Remove ads

Lịch sử

Thumb
Đĩa Stroboscopic của Giáo sư Stampfer Số X (1833)
Thumb
Một máy chiếu praxinoscope từ năm 1882, được minh họa đang chồng khớp một hình nhân vật hoạt hình lên một cảnh nền được chiếu riêng
Thumb
Fantasmagorie (1908) của Émile Cohl

Trước thời kỳ điện ảnh

Rất lâu trước khi hoạt hình hiện đại ra đời, khán giả trên khắp thế giới đã bị cuốn hút bởi phép thuật của những nhân vật chuyển động. Trong nhiều thế kỷ, các nghệ nhân và nghệ sĩ bậc thầy đã thổi hồn cho những con rối, người máy tự động, rối bóng, và những chiếc đèn lồng kỳ ảo, khơi dậy trí tưởng tượng thông qua những kỳ quan được điều khiển một cách khéo léo.[2]

Vào năm 1833, đĩa stroboscopic (được biết đến rộng rãi hơn với tên gọi phenakistiscope) đã giới thiệu nguyên lý của hoạt hình hiện đại, nguyên lý này sau đó cũng được áp dụng trong kỹ xảo zoetrope (ra mắt năm 1866), sách lật (1868), máy praxinoscope (1877) và điện ảnh.

Thời kỳ phim câm

Khi kỹ thuật quay phim cuối cùng cũng đột phá vào những năm 1890, sự kỳ diệu của những chi tiết chân thực trong phương tiện mới này được xem là thành tựu lớn nhất của nó. Phải mất nhiều năm trước khi hoạt hình tìm được đường đến với các rạp chiếu phim. Phim ngắn thành công The Haunted Hotel (1907) của J. Stuart Blackton đã phổ biến kỹ thuật stop motion và được cho là đã truyền cảm hứng cho Émile Cohl tạo ra Fantasmagorie (1908), được coi là ví dụ lâu đời nhất được biết đến về một tác phẩm hoạt hình truyền thống (vẽ tay) hoàn chỉnh trên phim điện ảnh tiêu chuẩn. Các phim ngắn nghệ thuật tuyệt vời và có ảnh hưởng khác được tạo ra bởi Ladislas Starevich với các tác phẩm hoạt hình rối của ông từ năm 1910 và bởi Winsor McCay với hoạt hình vẽ tay chi tiết trong các phim như Little Nemo (1911) và Gertie the Dinosaur (1914).[3]

Trong suốt những năm 1910, việc sản xuất "phim cartoon" đã trở thành một ngành công nghiệp tại Hoa Kỳ.[4] Nhà sản xuất thành công John Randolph Bray và họa sĩ hoạt hình Earl Hurd đã đăng ký bằng sáng chế cho quy trình hoạt hình cel thống trị ngành công nghiệp hoạt hình trong suốt phần còn lại của thế kỷ.[5][6] Felix the Cat, Chú Mèo Ma Quái, ra mắt năm 1919, đã trở thành nhân vật động vật nhân cách hóa hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử hoạt hình Mỹ.[7]

Feline Follies với Chú Mèo Felix, phim câm, 1919

Thời kỳ hoàng kim của Mỹ

Năm 1928, Steamboat Willie, với sự xuất hiện của Chuột MickeyChuột Minnie, đã phổ biến phim có âm thanh đồng bộ và đưa xưởng phim của Walt Disney lên vị trí tiên phong trong ngành công nghiệp hoạt hình. Mặc dù sản lượng thực tế của Disney Animation so với tổng sản lượng hoạt hình toàn cầu luôn rất nhỏ, xưởng phim này đã chi phối một cách áp đảo các "chuẩn mực thẩm mỹ" của hoạt hình kể từ đó.[8]

Thành công vang dội của Chuột Mickey được xem là khởi đầu cho thời kỳ hoàng kim của hoạt hình Mỹ kéo dài cho đến những năm 1960. Hoa Kỳ thống trị thị trường hoạt hình thế giới với vô số phim ngắn điện ảnh sử dụng kỹ thuật cel.[9] Một số xưởng phim đã giới thiệu những nhân vật trở nên vô cùng nổi tiếng và có sự nghiệp lâu dài, bao gồm Walt Disney Productions' Chú chó Goofy (1932) và Vịt Donald (1934), Fleischer Studios'/Paramount Cartoon Studios' Koko the Clown (1918), BimboBetty Boop (1930), Thủy thủ Popeye (1933) và Ma lành Casper (1945), Warner Bros. Cartoon Studios' Looney Tunes' Heo Porky (1935), Vịt Daffy (1937), Thợ săn Elmer Fudd (1937–1940), Thỏ Bugs (1938–1940), Chú chim Tweety (1942), Mèo Sylvester (1945), Sói Wile E. Coyote và Chim Road Runner (1949), MGM cartoon studio's Tom và Jerry (1940) và Chó Droopy, Universal Cartoon Studios' Chim gõ kiến Woody (1940), Terrytoons'/20th Century Fox's Chuột siêu nhân Mighty Mouse (1942), và United Artists' Pink Panther|Báo Hồng Panther (1963).

Phim dài trước thời kỳ CGI

Thumb
Họa sĩ biếm họa người Argentina gốc Ý Quirino Cristiani đang giữ hình cắt và có khớp nối của nhân vật châm biếm El Peludo (dựa trên Tổng thống Yrigoyen) được cấp bằng sáng chế năm 1916 để thực hiện các phim của ông, bao gồm phim dài hoạt hình đầu tiên trên thế giới El Apóstol[10]

Năm 1917, đạo diễn người Argentina gốc Ý Quirino Cristiani đã thực hiện bộ phim dài đầu tiên El Apóstol (hiện đã thất lạc), trở thành một thành công về mặt chuyên môn và thương mại. Tiếp theo đó là phim Sin dejar rastros của Cristiani vào năm 1918, nhưng chỉ một ngày sau buổi ra mắt, bộ phim đã bị chính phủ tịch thu.[11]

Sau ba năm làm việc, Lotte Reiniger đã phát hành phim dài hoạt hình bóng đen của Đức Die Abenteuer des Prinzen Achmed vào năm 1926, đây là phim hoạt hình dài cổ nhất còn tồn tại.[12]

Năm 1937, Hãng phim Walt Disney đã công chiếu phim hoạt hình dài đầu tiên của họ Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn, cho đến tính đến năm May 2020 vẫn là một trong những phim hoạt hình truyền thống có doanh thu cao nhất.[13][14] Xưởng phim Fleischer đã làm theo ví dụ này vào năm 1939 với Gulliver's Travels và đạt được một số thành công. Một phần do thị trường nước ngoài bị cắt đứt bởi Chiến tranh Thế giới Thứ hai, các phim dài tiếp theo của Disney là Pinocchio, Fantasia (cùng năm 1940), và phim hoạt hình dài thứ hai của Fleischer Studios Mr. Bug Goes to Town (1941–1942) đều thất bát về doanh thu phòng vé. Trong vài thập kỷ, Disney là xưởng phim Mỹ duy nhất thường xuyên sản xuất phim hoạt hình dài, cho đến khi Ralph Bakshi trở thành người đầu tiên phát hành nhiều hơn một vài phim dài. Sullivan-Bluth Studios bắt đầu thường xuyên sản xuất phim hoạt hình dài bắt đầu với An American Tail vào năm 1986.[15]

Mặc dù tương đối ít tác phẩm đạt được thành công như các phim của Disney, các quốc gia khác đã phát triển ngành công nghiệp hoạt hình của riêng họ, sản xuất cả phim hoạt hình ngắn và dài chiếu rạp với nhiều phong cách đa dạng, tương đối thường xuyên bao gồm các kỹ thuật hoạt hình tĩnh vậthoạt hình cắt giấy. Xưởng phim hoạt hình Xô viết Soyuzmultfilm, được thành lập năm 1936, đã sản xuất trung bình 20 phim (bao gồm phim ngắn) mỗi năm và đạt con số 1.582 tựa phim vào năm 2018. Trung Quốc, Tiệp Khắc / Cộng hòa Séc, Ý, Pháp và Bỉ là những quốc gia khác thỉnh thoảng cũng phát hành phim dài.

Truyền hình

Hoạt hình trở nên rất phổ biến trên truyền hình kể từ những năm 1950, khi TV bắt đầu trở nên phổ biến ở hầu hết các nước phát triển. Phim hoạt hình chủ yếu được lập trình cho trẻ em, vào các khung giờ thuận tiện, và đặc biệt là giới trẻ Mỹ đã dành nhiều giờ để xem phim hoạt hình sáng thứ Bảy. Nhiều phim hoạt hình cổ điển tìm thấy sức sống mới trên màn ảnh nhỏ và vào cuối những năm 1950, việc sản xuất phim hoạt hình mới bắt đầu chuyển từ phát hành điện ảnh sang các loạt phim truyền hình. Hanna-Barbera Productions đặc biệt sung mãn và có những loạt phim ăn khách lớn, như The Flintstones (1960–1966) (loạt phim hoạt hình giờ vàng đầu tiên), Scoody-Doo (kể từ năm 1969) và bản đồng sản xuất Bỉ The Smurfs (1981–1989). Những hạn chế của lập trình truyền hình Mỹ và nhu cầu về một khối lượng khổng lồ đã dẫn đến các phương pháp hoạt hình giới hạn rẻ hơn và nhanh hơn cùng những kịch bản công thức hơn nhiều. Chất lượng giảm sút cho đến khi những tác phẩm hoạt hình táo bạo hơn xuất hiện vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 với các loạt phim ăn khách, phim hoạt hình đầu tiên của The Simpsons (1987), sau này phát triển thành chương trình riêng của nó (vào năm 1989) và SpongeBob SquarePants (kể từ năm 1999) như một phần của "thời kỳ phục hưng" trong hoạt hình Mỹ.[16][17]

Trong khi các loạt phim hoạt hình Mỹ cũng tạo ra những thành công trên trường quốc tế, nhiều quốc gia khác đã sản xuất chương trình hướng đến trẻ em của riêng họ, tương đối thường ưa chuộng hoạt hình tĩnh vậtnghệ thuật rối hơn là hoạt hình cel. Các loạt phim anime truyền hình Nhật Bản trở nên rất thành công trên toàn cầu kể từ những năm 1960, và các nhà sản xuất châu Âu tìm kiếm họa sĩ hoạt hình cel với chi phí phải chăng thường xuyên bắt đầu các bản đồng sản xuất với các xưởng phim Nhật Bản, dẫn đến các loạt phim ăn khách như Barbapapa (Hà Lan/Nhật Bản/Pháp 1973–1977), Wickie und die starken Männer/小さなバイキング ビッケ (Vicky the Viking) (Áo/Đức/Nhật Bản 1974), Maya the Honey Bee (Nhật Bản/Đức 1975) và The Jungle Book (Ý/Nhật Bản 1989).[18][19]

Chuyển đổi từ cel sang máy tính

Hoạt hình máy tính dần được phát triển từ những năm 1940. Hoạt hình khung dây 3D bắt đầu xuất hiện trong dòng chủ lưu vào những năm 1970, với sự xuất hiện sớm (ngắn) trong phim giật gân khoa học viễn tưởng Futureworld (1976).[20]

The Rescuers Down Under là phim dài đầu tiên được tạo ra hoàn toàn bằng kỹ thuật số mà không cần máy quay.[21] Nó được sản xuất bằng cách sử dụng Hệ thống Sản xuất Hoạt hình Máy tính (CAPS), được phát triển bởi Pixar hợp tác với The Walt Disney Company vào cuối những năm 1980, theo phong cách tương tự như hoạt hình cel truyền thống.[22][23][24]

Phong cách được gọi là 3D, thường được liên kết với hoạt hình máy tính hơn, đã trở thành kỹ thuật thống trị sau thành công của Toy Story (1995) của Pixar, bộ phim dài đầu tiên được làm bằng hoạt hình máy tính theo phong cách này.[25]

Hầu hết các xưởng phim hoạt hình cel đã chuyển sang sản xuất chủ yếu các phim hoạt hình bằng máy tính vào khoảng những năm 1990, vì nó chứng minh là rẻ hơn và sinh lợi nhiều hơn. Không chỉ phong cách hoạt hình 3D rất phổ biến được tạo ra bằng máy tính, mà hầu hết các phim và loạt phim có diện mạo thủ công truyền thống hơn, trong đó những đặc tính quyến rũ của hoạt hình cel có thể được mô phỏng bằng phần mềm, trong khi các công cụ kỹ thuật số mới giúp phát triển các phong cách và hiệu ứng mới.[26][27][28][29][30][31]

Remove ads

Các xưởng phim hoạt họa

Các xưởng phim hoạt họa, cũng giống như các công ty phim, có thể hoặc là những nơi cung cấp công cụ dàn dựng song cũng có thể là các chủ thể tài chính. Trong một vài trường hợp, đặc biệt là trường hợp của Anime, chúng có những điểm giống nhau, tương tự như các xưởng vẽ của các họa sĩ, nơi một họa sĩ bậc thầy, hoặc một nhóm họa sĩ tài ba chăm nom công việc của những họa sĩ và những nhân viên thủ công có trình độ kém hơn, hòng giúp họ thực hiện viễn tưởng của mình.

Phong cách và kỹ thuật hoạt họa

  • Hoạt họa máy tính
    • Hoạt họa phác thảo
    • Hoạt họa khung xương
    • Hoạt họa định hướng biến chuyển
    • Hoạt họa xenluloit tô bóng
    • Hoạt họa bóc vỏ hành
    • Hoạt họa máy tính mô phỏng
    • Hoạt họa bắt dáng chuyển động
    • Hoạt họa truyền thống dùng kỹ thuật số
    • Hoạt họa dùng PowerPoint
  • Hoạt họa tĩnh vật
    • Hoạt họa cắt giấy
    • Hoạt họa đất sét
    • Hoạt họa Pixilation
    • Hoạt họa dùng con rối
  • Hoạt họa trên màn đinh ghim
  • Hoạt họa vẽ hình trên phim
  • Hoạt họa dùng hiệu ứng đặc biệt
Remove ads

Ghi chú

Xem thêm

Tham chiếu

Liên kết ngoài

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads