Thẩm Thúy Hằng
diễn viên điện ảnh người Việt Nam From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Thẩm Thúy Hằng[a] (6 tháng 10 năm 1939[b] – 6 tháng 9 năm 2022) tên thật là Nguyễn Kim Phụng. Bà sinh ra tại Hải Phòng[c] là một diễn viên người Việt Nam. Được xem là ngôi sao sáng nhất của điện ảnh thương mại miền Nam Việt Nam giai đoạn cuối thập niên 1950 đến cuối thập niên 1970, bà tham gia nhiều bộ phim, trong đó nhiều phim hợp tác với Mỹ, Philippines, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản,... Với những cống hiến và thành tựu to lớn đóng góp cho Điện ảnh Việt Nam trên phạm vi châu lục và quốc tế, bà được báo chí trong nước và quốc tế xưng tụng là Đệ nhất minh tinh màn bạc. Tên tuổi của bà không chỉ nổi tiếng tại Việt Nam mà còn được biết tới tại các nước trong khu vực.
Remove ads
Tiểu sử

Thẩm Thúy Hằng tên thật là Nguyễn Kim Phụng, có tên Thánh là Jeane.[5] Bà sinh ra tại Hải Phòng, nhưng sau đó cùng gia đình di cư vào miền Nam (1941) và lớn lên ở An Giang.[6][7] Cha mẹ bà là người Hải Phòng, thuộc tầng lớp công chức, cha là một viên chức trong chính quyền Quốc gia Việt Nam, mất sớm khi bà mới 13 tuổi.
Thuở nhỏ, bà theo học trường Huỳnh Văn Nhứt ở Long Xuyên. Hết bậc tiểu học, Kim Phụng lên Sài Gòn ở với người chị theo học trung học tại trường Huỳnh Thị Ngà, Tân Định. Năm Kim Phụng lên 16 tuổi, học lớp Đệ tứ (lớp 9 trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay), bà đã nức tiếng là một hoa khôi trong giới học sinh. Học hết năm Đệ tứ,[5] khi hết 16 tuổi, bà lén gia đình tham gia cuộc thi tuyển diễn viên điện ảnh của hãng phim Mỹ Vân và đạt giải nhất của cuộc thi sau khi vượt qua 2.000 thí sinh khác.
Nghệ danh Thẩm Thúy Hằng do bà đặt dựa theo họ của nhạc sĩ tiền chiến Thẩm Oánh với lòng kính trọng ông.[8][9] Theo nghệ sĩ Nguyên Lê (vai cháu của Thẩm Oánh) thì khi nhạc sĩ khuyên Kim Phụng hãy theo học điện ảnh, bà đã nghe theo;[10] lúc hãng phim Mỹ Vân khuyên bà chọn nghệ danh thì bà đã lấy họ Thẩm của Thẩm Oánh để tỏ lòng kính trọng.[11] Thời này ông là hiệu trưởng trường Ca-vũ-nhạc phổ thông Sài Gòn nơi bà đang theo học môn kịch.[11]Bà từng nhận một học bổng sang Hong Kong học diễn xuất.[12]
Remove ads
Sự nghiệp
1957-1969 : Vụt sáng với Người đẹp Bình Dương

Với vai diễn đầu tiên Tam Nương trong phim Người đẹp Bình Dương - một phim đen trắng của hãng phim Mỹ Vân do nghệ sĩ Năm Châu đạo diễn, ra mắt công chúng cuối năm 1957, trình chiếu dịp Noel và phát hành rộng rãi vào năm 1958, Thẩm Thúy Hằng đã nổi lên như một ngôi sao điện ảnh và chinh phục khán giả màn ảnh rộng lúc bấy giờ. Cái tên “Người đẹp Bình Dương” đã theo Thúy Hằng đi suốt cuộc hành trình nghệ thuật thập niên 50 - 60.
Sau khi trở thành ngôi sao tỏa sáng làng điện ảnh, Thẩm Thúy Hằng được các hãng phim lúc bấy giờ mời vào vai chính liên tục. Bà đóng rất nhiều phim (khoảng 60 phim) và trở thành minh tinh số một với tiền cát-xê một triệu đồng cho một vai diễn (tương đương một kg vàng 9999 thời bấy giờ).[13]
Ngoài vai diễn đầu tiên Tam Nương trong phim Người đẹp Bình Dương, một vai diễn khác cũng rất đẹp của Thẩm Thúy Hằng từng gây được tiếng vang góp phần đưa tên tuổi của bà lên nấc thang danh vọng, đó là vai Chức Nữ trong bộ phim Ngưu Lang Chức Nữ cũng do hãng phim Mỹ Vân sản xuất, NSND Năm Châu đạo diễn. Khán giả không thể quên nàng Chức Nữ đẹp lộng lẫy, sương khói đang bay về trời trong tiếng hát thánh thót như ngân lên từ những áng mây huyền ảo, thần tiên trong nhạc cảnh Chức Nữ về trời do Phạm Duy soạn nhạc.
1969-1975 : Vilifilms và nổi tiếng toàn châu lục
Năm 1969, bà đứng ra thành lập nhóm làm phim riêng mang tên Thẩm Thúy Hằng, tiền thân của hãng Vilifilms nổi tiếng ở Sài Gòn sau này. Bộ phim đầu tiên của bà trong vai trò chủ hãng là Chiều kỷ niệm. Đạo diễn phim là Lê Mộng Hoàng cùng các diễn viên: Năm Châu, Kim Cúc, Phùng Há, Thanh Tú, Huy Cường, Việt Hùng, Ngọc Nuôi,... Sự thành công rực rỡ của Chiều kỷ niệm làm tên tuổi của Thẩm Thúy Hằng thêm nổi tiếng, bà tiếp tục cho ra đời thêm các bộ phim Nàng, rồi Ngậm ngùi, đều thu được thành công rực rỡ.

Bà tham dự nhiều liên hoan phim, xuất hiện tại Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Singapore, Indonesia...Giai đoạn này, bà thường đóng cặp với các nam diễn viên như La Thoại Tân, Thành Được, Thanh Tú,...Bà từng bước bước lên đỉnh cao danh vọng và được mệnh danh là một trong Tứ đại mỹ nhân bên cạnh các nghệ sĩ Kiều Chinh, Kim Cương và Thanh Nga.[14]
Không chỉ điện ảnh, Thẩm Thúy Hằng còn tham gia lĩnh vực sân khấu, đóng kịch và diễn cải lương. Ban Thẩm Thúy Hằng là một trong những ban kịch được yêu thích ở Sài Gòn thời gian đó. Trong vai trò trưởng ban, Bà viết kịch bản, dàn dựng và đóng vai chính. Một số vở thành công như Người mẹ già, Suối tình, Đôi mắt bằng sứ... Trên sân khấu cải lương, Thẩm Thúy Hằng có vai vũ nữ Cẩm Lệ trong vở Bóng chim tăm cá của đoàn Thanh Minh - Thanh Nga...[15]
Một số vở kịch phát trên sóng truyền thanh hay trên màn ảnh nhỏ thời đó có sự góp mặt của Thẩm Thúy Hằng được khán giả ghi nhớ như: serie kịch ngắn Câu chuyện lúc 0 giờ, Sông dài, Vũ điệu trong bóng mờ, Người mẹ già, Đôi mắt bằng sứ, Suối tình, Dạt sóng...[16]
Danh tiếng và địa vị của Thẩm Thúy Hằng càng được nâng cao hơn nữa lên tầm quốc tế khi bà xuất hiện tại Pháp, Tây Đức, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Liên Xô…để dự liên hoan phim, hay trong những vai diễn hợp tác. Đi đến đâu Thẩm Thúy Hằng cũng được hâm mộ, khán giả tôn vinh và ái mộ nhan sắc của bà, Thẩm Thúy Hằng sánh vai cùng Creg Moris, Wen Tao, Địch Long, Khương Đại Vệ… khoe sắc, khoe tài với những Lý Lệ Hoa, Lý Thanh, Lăng Ba, Trịnh Phối Phối, Chân Chân, Lâm Thanh Hà.[17]
Sau 1975-2022 : Loạt phim Cách mạng và giã từ điện ảnh
Sau 1975, Thẩm Thúy Hằng ở lại Việt Nam. Bà tiếp tục tham gia những bộ phim điện ảnh Cách mạng như: Như thế là tội ác, Ngọn lửa Krông Jung, Hồ sơ một đám cưới, Đám cưới chạy tang, Cho cả ngày mai, Nơi gặp gỡ của tình yêu,... Ở lĩnh vực sân khấu, Thẩm Thúy Hằng có những vai diễn dáng chú ý trong Cho tình yêu mai sau, Đôi bông tai, Hoa sim gai trắng, Biệt thự hoang tàn... Vai diễn cuối cùng của Thẩm Thúy Hằng là vai Phồn Y trong vở Lôi Vũ của đoàn kịch Kim Cương.
Năm 2006, sau một thời gian tạm xa ánh đèn sân khấu, bà trở lại với hai kịch bản đậm chất triết lý là Người hạnh phúc và Nụ cười và nước mắt, thể hiện những chiêm nghiệm của bà sau nhiều lần trải qua biến cố.[18]
Tháng 5 năm 2012, hãng LQTT production đã cho ra mắt bộ phim Chân dung người đẹp Bình Dương - Nữ nghệ sĩ Thẩm Thúy Hằng được phát hành với hình thức online cho khán giả xem miễn phí. Khán giả đã được nhìn ngắm lại nét diễn xuất, nhan sắc tuyệt vời của nữ minh tinh Thẩm Thúy Hằng qua nhiều bộ phim, những vở kịch, hình ảnh quý giá…[19]
Bà đã được nhà nước Việt Nam phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú năm 1984.[20]Một số nghệ sĩ nổi tiếng như Kim Xuân[21], Mộng Tuyền[22],Thành Lộc, Trịnh Kim Chi[23], Hồng Ánh, Băng Châu[24], Ngọc Ánh[25], Phương Hồng Ngọc[26] đều kính trọng và coi bà như thần tượng trong nghề.
Remove ads
Nguồn gốc nghệ danh
Ở quan điểm thứ nhất, nghệ danh Thẩm Thúy Hằng là do bà đặt dựa theo họ của nhạc sĩ tiền chiến Thẩm Oánh.[27][28] Theo nghệ sĩ Nguyên Lê (vai cháu của Thẩm Oánh) thì khi nhạc sĩ khuyên Kim Phụng hãy theo học điện ảnh, bà đã nghe theo;[29] lúc hãng phim Mỹ Vân khuyên bà chọn nghệ danh thì bà đã lấy họ Thẩm của Thẩm Oánh để tỏ lòng kính trọng.[11] Thời gian này, nhạc sĩ Thẩm Oánh là hiệu trưởng Trường Ca-vũ-nhạc phổ thông Sài Gòn nơi bà đang theo học môn kịch.[11]
"Thẩm Thúy Hằng, một cái tên vừa sang trọng, vừa gợi cảm, lấy cảm hứng từ vẻ đài các và quý phái của cô gái trẻ. Thẩm là họ mượn từ nhân vật nổi tiếng Thẩm Thăng Nghĩa trong các phim kiếm hiệp. Còn Thúy Hằng mang âm hưởng dịu dàng, thanh tú, gợi sự mong manh như ánh trăng đêm. Cái tên ấy về sau đã trở thành thương hiệu, biểu tượng của điện ảnh miền nam Việt Nam nhiều thập kỷ."
Thời báo Kịch Trường Sài Gòn nhận định về nghệ danh Thẩm Thúy Hằng"[30]
Ở quan điểm thứ hai, trang tin điện tử Phụ Nữ Today năm 2014 dẫn lại nguồn khác cho rằng Thẩm Thúy Hằng đã trả lời phỏng vấn cho biết bà lấy nghệ danh này để tri ân cả thầy dạy nhạc là Thẩm Oánh và thầy dạy văn là Thẩm Thệ Hà.[31]
Quan điểm thứ ba cho rằng chủ hãng Mỹ Vân tự đặt nghệ danh này cho bà,[32] và trang tin điện tử Eva năm 2020 dẫn lại nguồn khác cho rằng giám đốc hãng Mỹ Vân lấy cảm hứng từ lòng ngưỡng mộ mà Kim Phụng dành cho thầy giáo Thẩm Thệ Hà mà đặt nghệ danh này cho bà.[33]
Về thành tố "Hằng" trong nghệ danh, có nguồn diễn giải rằng Kim Phụng yêu thích dòng sông Hằng ở Ấn Độ vì sông giúp gột rửa tội lỗi, đưa con người về cõi vĩnh hằng.[31][34]
Đời tư
Cuộc hôn nhân đầu tiên
Năm 1959, bà lập gia đình với một người chồng lớn hơn bà 2 tuổi, theo sự sắp xếp của mẹ và các anh. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân tan vỡ sau 5 năm và 2 người được cho đã có chung 1 đứa con (sinh năm 1961). Tuy nhiên, trong đám tang của bà, người con trai thứ ba của bà đã đính chính với truyền thông rằng những thông tin về bất kỳ ai ngoài 4 người con với ông Nguyễn Xuân Oánh đều là sai sự thật. Bà chỉ có 4 người con với ông Oánh.[35]Năm 2017, một tờ báo trong nước đưa tin người được cho là con gái đầu của minh tinh là cô tên Thi Hằng, tuy nhiên sau khi được phỏng vấn, người phụ nữ này phủ nhận mình có liên quan huyết thống với bà Thẩm Thúy Hằng.[36]
Cuộc hôn nhân thứ hai

Năm 1968, bà gặp ông Nguyễn Xuân Oánh, một Tiến sĩ Kinh tế lớn hơn bà 19 tuổi, từng làm Thống đốc Ngân hàng, Phó thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Chính ông là người giúp đỡ bà lập ra hãng phim Thẩm Thúy Hằng. Năm 1970, bà chính thức lên xe hoa lần thứ 2. Sau năm 1975, ông từng được bầu làm Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, rồi làm cố vấn kinh tế cho Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, và Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Hai người có với nhau 4 người con trai.
Bốn người con trai
Các con trai của họ lần lượt ra đời là Nguyễn Thanh Vũ, hiện sống ở Melbourne (Úc). Nguyễn Xuân Dũng sống ở Mỹ, cặp sinh đôi Nguyễn Xuân Ái Quốc (sống ở Úc) và Nguyễn Xuân Quốc Việt (sống ở Mỹ).[37]
Tôn giáo và đức tin
Bàn về đức tin của bà, có báo viết rằng bà có tên thánh là Jeane khi nhỏ[5], tuy nhiên nguồn báo Giác Ngộ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam xác nhận bà tin theo đạo Phật, tu tại gia, ăn chay trường và nghiên cứu thiền học.[38]
Biến chứng thẩm mỹ cuối đời
Từ cuối thập niên 80 đến đầu thập niên 90, Thẩm Thúy Hằng giã từ điện ảnh một phần vì tuổi tác phần vì bà ngại phóng viên và người hâm mộ chụp hình bà do khuôn mặt bà lúc này đã bị biến chứng vì một lần tiêm botox bị hỏng, khiến cho khuôn mặt dần bị biến dạng.[39]Giai đoạn này, Thẩm Thúy Hằng nếu có xuất hiện thì sẽ che khăn voan kín mặt và đeo kính.[40] Về sau này, khi tuổi càng cao và bà chuyên tâm tu thiền tại gia, Thẩm Thúy Hằng đã tự tin gỡ khăn voan để mặt mộc và giao lưu với đồng nghiệp và khán giả. Năm 2012, trong một buổi giao lưu, báo chí đã chụp được hình ảnh gần nhất lúc đó của bà rồi đăng lên internet khiến cho minh tinh cảm thấy rất buồn[41]vì không được giới trẻ tôn trọng.[42]
Về người con trai đầu lòng đã qua đời
Theo lời kể của một số người thân cận với minh tinh, con trai đầu lòng từng là niềm tự hào lớn nhất của bà, nhưng không may anh mắc phải một căn bệnh hiểm nghèo và ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ. Cái chết đó khiến cho Thẩm Thúy Hằng bước vào một giai đoạn trầm cảm sâu sắc. Sau mất mát đó, bà hoàn toàn rút lui khỏi điện ảnh và làng giải trí.[43]
Qua đời
Bà qua đời lúc 20h10 ngày 6 tháng 9 năm 2022 tại nhà riêng, hưởng thọ 83 tuổi.[44][45]
Remove ads
Di sản

- Theo tạp chí Đẹp, bà được xem như Đại minh tinh của điện ảnh Việt Nam, được ví như nàng Marilyn Monroe của Việt Nam.[46]Là nữ diễn viên Việt Nam đầu tiên đoạt Ảnh hậu Á Châu trong Liên hoan phim Châu Á năm 1974. Sau giải thưởng đó, sự ảnh hưởng của Thẩm Thúy Hằng lên nền điện ảnh của Việt Nam là rất lớn. Đồng thời, bà cũng có tính nữ đầy độc đáo khi vừa có chút dịu dàng, đằm thắm của nữ nhân Việt nhưng rất đỗi quyến rũ, tiên phong cho sự phá cách đầy táo bạo khi diện áo tắm hai mảnh xuất hiện trên họa báo.[47]Người ta ngợi ca nhan sắc của bà qua câu nói dân gian: "Đẹp như Thẩm Thúy Hằng".[11][48]
Remove ads
Những phim tiêu biểu tham gia
Trước 1975
- Người đẹp Bình Dương (1957-58)[d]
- Giọt mưa ngâu (1958)
- Tơ vương đến thác (1958)
- Áo dòng đẫm máu (1959-60)
- Bảy tâm hồn nổi loạn (1960)
- Tấm Cám (1960)
- Sự tích trầu cau (1960)
- Bạch Viên - Tôn Cát (1960)
- Nửa hồn thương đau (1960)
- Đôi mắt huyền (Thuyền ra cửa biển) (1960)
- Đò chiều (1960)
- Đồ bàn di hận (1961)
- Tấm lòng hiếu thảo (1961)
- Oan ơi ông Địa (1961)
- Ngưu Lang - Chức Nữ (Chức nữ về trời) (1963)
- Trà hoa nữ (1963)
- Tình buồn (1963)
- Tơ tình (1963)
- Dang dở (1963)
- Lòng tin trước bạo lực (1963)
- Mười năm giông tố (1963)
- Bóng người đi (1964)
- Đại sát thủ (1965)
- Kim trai thời loạn (1965)
- Tình yêu và danh vọng (1965)
- Con búp bê nhồi bông (1966)
- Sài Gòn vô chiến sự (Saigon Out of War) (1967)[50]
- Chiều kỉ niệm (1969)
- Nàng (1970)
- Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ (1970)
- Người về từ đỉnh núi (1970)
- Vũ điệu trong bóng mờ (1970)
- Như hạt mưa sa (1971)
- Chân trời tím (1971)
- Lá rừng (1972)
- Chờ người (1972)
- Đỉnh núi mây hồng (1972)
- Sóng tình (1972)
- Tứ quái Sài Gòn (1973)
- Điệp vụ tìm vàng (S.T.A.B) (1973)
- Ngậm ngùi (1973)
- Anna Nguyệt (1973)
- Năm vua hề về làng (1974)
- Xin đừng bỏ em (1974)
- Hòn vọng phu (1974)
- Chàng ngốc gặp hên (1975)
- Giỡn mặt tử thần (1975)
Sau 1975
- Như thế là tội ác
- Hồ sơ một đám cưới
- Đám cưới chạy tang
- Ngọn lửa Krông Jung (1980)
- Nơi gặp gỡ của tình yêu (1980)
- Cho cả ngày mai (1981)
- Đợi chờ (1986)
- Chân dung người đẹp Bình Dương (tài liệu) (2012)[51]
Remove ads
Giải thưởng
- 1964: Danh hiệu Hoa hậu Ảnh Toàn Châu Á
- 1972-1974: Diễn viên xuất sắc Á châu tại Liên hoan phim Đài Bắc, Ảnh hậu Á châu trong Liên hoan phim Á châu tổ chức tại Hồng Kông và Đài Loan.
- 1973: Giải Kim Khánh (Ảnh Hậu Quốc Gia)
- 1982: Giải nữ diễn viên khả ái nhất tại LHP Moscow và Tasken tại Liên Xô.
Xem thêm
Chú thích
Chú giải
Liên kết ngoài
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads